TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 84 CN 06.05.2007

 

Web site : www.tinvui.org

E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Mục lục

Chúa Nhật V Phục Sinh.

Yêu như Chúa.

XỨC DẦU THÁNH..

Hiện tình Giáo Hội Italia.

Chúa nhựt Chúa chiên lành.

1000 bạn trẻ đã tham dự Ngày Ơn Gọi tại giáo phận Đà Nẵng.

Mừng Lễ Quan Thầy Giuse Thợ tại Giáo phận Kontum.

MỪNG THƯỢNG THỌ BÁT TUẦN VÀ KỶ NIỆM 32 NĂM GIÁM MỤC CŨA ĐỨC CHA GB. BÙI TUẦN  

TỪ BÀN VIẾT CỦA MỘT CỤ GIÁ..

THÁI ĐỘ MỤC VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI TÍN HỮU DI DÂN..

MỘT KIẾP THAO THỨC..

VÂNG THEO THÁNH Ý CHÚA..

Giải đáp thắc mắc.

ƠN GỌI VÀ DÒNG TU..

ƠN GỌI TU TRÌ.

MẮT NHẮM, MẮT MỞ..

Giáo dục con cái:

BỨC TƯỜNG VÔ HÌNH..

CĂN CƯỚC..

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật V Phục Sinh

( 06.05.2007)

Ga 13, 31-33a. 34-35

"Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.

"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau". Đó là lời Chúa.

Yêu như Chúa

Tình yêu là một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời buổi hiện nay, tình yêu là một mặt hàng đắt khách nhất. Thực vậy, tình yêu xuất hiện trên báo chí và sách vở, trên phim ảnh và mọi ngành nghệ thuật. Những bản tình ca, những tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở mọi nơi và chi phối đời sống nhân loại.

Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Thế giới chúng ta đang sống lại là một thế giới bị xâu xé bởi hận thù. Người ta tưởng rằng khi cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ kết thúc, thế giới sẽ được sống trong hòa bình. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thế giới vẫn không ngừng sôi sục vì chiến tranh và xung đột. Xung đột giữa các quốc gia vốn một thời là anh em với nhau, xung đột giữa các bộ tộc cùng một đất nước, xung đột giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau, người ta bắn giết nhau không nương tay, nhân loại bị đe dọa bởi chính con người. Vì thế, cách đây mấy năm Liên Hiệp Quốc đã chọn chủ đề và cổ võ cho lòng khoan dung, bởi lẽ chỉ có lòng khoan dung mới cứu được thế giới khỏi thảm họa diệt vong. Và trong những năm gần đây, Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương.

Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, mầu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị.

Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương, đó là bổn phận cấp bách của người Ki-tô hữu hôm nay, và đó cũng là ý muốn của Chúa Giê-su khi Ngài nói với chúng ta : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”. Chúa Giê-su đã coi tình yêu thương giữa các Ki-tô hữu là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đích thực của Ngài. Nói cách khác, người môn đệ của Chúa phải là người biết yêu thương.

Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy : họ coi mọi sự như là của chung, họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Trước tình yêu thương như thế, dân ngoại đã phải thốt lên : kìa xem họ yêu nhau biết chừng nào.

Không có tình yêu thương thì chẳng ai nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Ki-tô, bản chất của người môn đệ Chúa là yêu thương. Tuy nhiên, trong thực tế, các Ki-tô hữu hôm nay vẫn chưa sống nghiêm túc giới răn này. Có biết bao nhiêu tranh chấp đã, đang và sẽ còn xảy ra trên thế giới giữa những anh em Ki-tô hữu. Phải chăng dấu ấn của Chúa Ki-tô chưa thực sự in sâu vào tâm hồn và cuộc sống để chúng ta có thể vượt lên trên những bất đồng và dị biệt ?

Chúng ta suy nghĩ gì về lời phát biểu sau đây của một người Ấn Độ : “Nếu tất cả những người Ki-tô hữu sống đúng như lời Kinh Thánh dạy, nghĩa là biết yêu thương nhau như Chúa đã truyền, thì chỉ trong vòng 5 năm nữa thôi, họ sẽ chinh phục được toàn thể đất nước Ấn Độ”.

Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó có lời dạy : hãy yêu thương nhau. Tôn giáo nào cũng dạy tình yêu thương. Văn hóa Á Đông cũng đã từng nêu châm ngôn : “Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể đều là anh em. Để nhắc nhở mọi người yêu thương nhau, đạo lý cha ông chúng ta cũng đã dạy: “Thương người như thể thương thân”. Ngay trong Cựu Ước cũng nhiều lần dạy : “Hãy yêu đồng loại như chính mình”. Vậy điều răn yêu thương Chúa Giê-su gọi là điều răn mới. Mới ở chỗ nào ?

Trước hết, vì đây là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với mọi người. Và Chúa còn đưa ra một lý lẽ nữa, đó là kiểu mẫu yêu thương. Luật cũ dạy : “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn : tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại trừ được những động lực vị kỷ. Còn Chúa Giê-su, Ngài đến để hoàn tất Cựu Ước, Ngài đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Ngài đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh, đó là Ngài dạy : Hãy yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu thương nhau chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài cũng là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau.

Nói về tình yêu thương nhau, chúng ta đã nói hoặc đã nghe nhiều rồi, chúng ta quá biết rồi. Nhưng từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn có một khoảng cách : chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác; chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu ấy trong một mức độ nào đó để khỏi phải thiệt thòi cho mình. Chúng ta chỉ yêu người nào yêu mình, chúng ta làm gì cho ai khi biết rằng chúng ta sẽ được lại như thế hay hơn thế. Vì vậy, ngay đối với người bên cạnh, có thể là anh em, chị em trong cộng đoàn, có thể là những người thân thiết ruột thịt, chúng ta cũng vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý lẽ trần tục : người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế. Như vậy, còn gì là điều răn mới của Chúa ? còn đâu là dấu chỉ để người ta nhận ra chúng ta là con cái Chúa nữa ? Xin Chúa cho chúng ta sống và thực hành đúng như Chúa dạy để cuộc sống chúng ta luôn được an vui và qua đó mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ, là tín hữu của Chúa.


Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP 

TU ĐỨC

XỨC DẦU THÁNH

Đức Cha Giuse yêu cầu tôi giảng thánh lễ hôm nay, ngày 30/4/2007, vì lễ hôm nay là kỷ niệm 32 năm tôi thụ phong giám mục.

Tôi xin vâng. Nhưng những gì tôi nói trong thánh lễ này sẽ là bài chia sẻ hơn là bài giảng. Nội dung chia sẻ gồm 3 phần vắn tắt:

Trước hết về ấn tượng sâu đậm nhất tôi nhận được trong lễ thụ phong giám mục

 

1/ Ấn tượng


Ấn tượng đó xảy ra khi được Đức Cha Micae xức dầu thánh cho tôi.


Lúc đó, tôi nhớ đến lời Kinh Thánh xưa: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi" (Lc 4,18).


Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì dầu thánh nói đây ám chỉ một ơn riêng làm toả hương thơm tình yêu Chúa.


Lúc ấy sự hiểu biết đó chỉ thoáng qua đầu óc tôi, nhưng đủ gây trong tôi ấn tượng này: Tôi được sai vào một hoàn cảnh rất mới, rất khó, để toả hương thơm tình yêu Chúa.


Tôi biết sứ mạng thiêng liêng đó vượt quá sức tôi, vì tôi quá yếu đuối, nên tôi phó thác tương lai tôi cho Chúa. Phó thác đơn sơ, phó thác tuyệt đối. Phó thác không có nghĩa là sẽ không làm gì, nhưng sẽ là cố gắng hết sức mình để đón nhận ơn Chúa.


Đón nhận bằng cầu nguyện, bằng tỉnh thức lắng nghe những tín hiệu trong các diễn biến lịch sử, bằng sự đồng cảm với Hội Thánh và Quê Hương. Khổ cái khổ của địa phận, đau cái đau của đồng bào, lo cái lo của Đất Nước.


Trong suốt đời giám mục, tôi ý thức sâu sắc mình được xức dầu để làm chứng cho "điều răn mới" (Ga 13,34). Cuộc sống làm chứng đã cho tôi nhiều cảm nghiệm. Những cảm nghiệm đó là thế nào?


2/ Cảm nghiệm

 

Cảm nghiệm đầu tiên của tôi là tôi phải luôn chiến đấu với chính mình, để vâng theo ý Chúa. Nếu cuộc chiến đó có một chiến lược, thì chiến lược đó đã được diễn tả trong kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô.


Một đoạn nhỏ sau đây có thể cho thấy hình ảnh chiến lược đó: "Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".


Tôi vui mừng nhận thấy chiến lược kinh Hoà bình đã được mọi thành phần của giáo phận thực hiện.


Khi thực hiện, chúng ta đã phải vượt qua bao khó khăn và đau khổ. Nói chung là chúng ta cảm nghiệm thấy: Hương thơm tình yêu Chúa được ban cho ta, khi ta biết cộng tác với chính Đức Kitô, với trái tim của Người, với thánh giá của Người, với lễ tế chính bản thân Người.


Suốt những năm qua, chúng ta đã sống như thế với Người, đã làm chứng như thế cho Người, đã rao giảng như thế về Người.


Hiệu quả được chúng ta cảm nghiệm là âm thầm, nhưng lớn lao, cao quý. Bởi vì đã có vô số sự trở về đàng lành. Xã hội đó đây trở về. Nhiều đồng bào trở về. Chính chúng ta là những người tội lỗi được Chúa đưa trở về. Do đó, điều tôi cảm nghiệm sâu sắc nhất, đó là Thiên Chúa đúng là tình yêu thương xót, rất gần gũi và giản dị.


Nhưng chúng ta không dừng lại ở những cảm nghiệm đó. Bởi vì chúng tôi cũng như anh chị em vẫn phải lên đường. Và đây chính là điều gây cho tôi nhiều thao thức.

 

Đức Cha GB Bùi Tuần gặp ĐTC Gioan Phaolô II


3/ Thao thức


Xưa, Chúa Giêsu đã phán: "Hôm nay, ngày mai, ngày mốt, Thầy phải tiếp tục đi" (Lc 13,33). Chúng ta là môn đệ Chúa cũng tiếp tục đi. Con đường ta đi là lịch sử Đất Nước, lịch sử Hội Thánh, lịch sử riêng ta. Những lịch sử đó có nhiều chuyển biến và bất ngờ.


Vì thế, thao thức lớn của tôi là chia sẻ tâm tình của Chúa Giêsu, khi Người cầu nguyện xưa trong bữa tiệc ly: "Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần" (Ga 17,15). Ác thần là những động lực của xác thịt, thế gian và quỷ dữ tìm cách đẩy con người xuống hoả ngục.


Những ác thần đó cũng mang những thứ dầu thơm của riêng chúng. Thường thì những dầu thơm đó, dù có chút mùi đạo đức, nhưng vẫn huỷ hoại lương tâm bằng nhiều nham hiểm.

 

Vì thế, nếu nghĩ rằng đời sống đạo hôm nay là an toàn, không bị những ác thần mưu mô phá hoại, thì quả là quá ngây thơ. Điều đó càng làm tôi thêm thao thức, nhất là tôi linh cảm, những gì Đức Mẹ cảnh báo ở Fatima sẽ xảy ra rất ghê gớm, nếu nhân loại không trở về đàng lành.


Để kết bài chia sẻ này, tôi xin nói với anh chị em một niềm vui âm thầm của tôi. Đó là tôi thấy "Đức Mẹ Thăm viếng" (x. Lc 1,39-56) đã đến giáo phận ta từ lâu rồi. Mẹ đã ở lại với chúng ta, đã luôn che chở chúng ta là những con cái yếu hèn bé nhỏ của Mẹ. Biết bao người đã nhận được dầu thiêng "Đức Mẹ Thăm viếng" ban cho. Dầu thiêng đó đã giúp chúng ta đổi mới cuộc đời, chữa lành nhiều vết thương, để ta an tâm đi về với Thiên Chúa giàu lòng thương xót.


Cùng với "Đức Mẹ Thăm viếng", chúng ta khiêm tốn cảm tạ Chúa và tuyệt đối phó thác, xin vâng ý Chúa đến muôn đời.

 

+ ĐGM GB. Bùi Tuần

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Hiện tình Giáo Hội Italia

 

Một số nhận định của Đức Cha Angelo Bagnasco, Tổng Giám Mục Genova, Tân Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, về hiện tình Giáo Hội Italia

Ngày mùng 7-3-2007 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chỉ định Đức Cha Angelo Bagnasco, Tổng Giám Mục Genova, tây bắc Italia, làm Tân Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Italia thay thế Đức Hồng Y Camillo Ruini. Đức Cha Bagnasco sinh năm 1943 thụ phong Linh Mục năm 1966. Từ năm 1966 đến 1979 cha Bagnasco làm phó xứ và lấy tiến sĩ triết học tại đại học Genova năm 1979. Trong các năm 1986 đến 1995 cha đặc trách các công tác mục vụ cho giáo phận và từ năm 1980 cũng là giáo sư dậy môn siêu hình và chủ thuyết vô thần tại phân khoa thần học Bắc Italia cho đến 1998, khi được chỉ định làm Giám Mục giáo phận Pesaro, trung Italia.

Năm 2003 Đức Cha đặc trách ngành tuyên uy quận đội và năm 2006 vừa qua Đức Thánh Cha Biển Đức XVI chỉ định Đức Cha làm Tổng Giám Mục Genova. Lập trường bênh vực gia đình truyền thống của Đức Cha đã khiến cho các nhóm đồng phái đe dọa Đức Cha và chính quyền Italia phải cho lực lượng cảnh sát tháp tùng Đức Cha trong các di chuyển cũng như canh gác tòa Tổng Giám Mục Genova ngày đêm.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn, một số nhận định của Đức Cha về tình hình Giáo Hội Italia.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Đức Cha đã có các cảm nhận nào trong những ngày này, đặc biệt sau khi được Đức Thánh Cha chỉ định làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Italia?

Đáp: Chính Đức Thánh Cha đã báo tin cho tôi biết ngài chỉ định tôi làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Italia. Tôi đã rất ngạc nhiên vì sự lựa chọn này, đồng thời cũng biết ơn Đức Thánh Cha vì sự tín nhiệm dành cho tôi. Tôi cũng cảm thấy bối rối trước sự tin tưởng này, và ý thức được trách nhiệm lớn lao phải có đối với các anh em Giám Mục khác: là phục vụ sự hiệp thông và tình huynh đệ giữa các chủ chăn. Nhiệm vụ đó lại càng nặng nề hơn nữa trong giai đoạn lịch sử này của Giáo Hội và đất nước Italia.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội Italia hiện nay có gương mặt như thế nào?

Đáp: Đó là một Giáo Hội luôn ý thức hơn về niềm tin của mình, về sự cần thiết loan báo Tin Mừng và là men trong xã hội ngày nay, với sự tôn trọng nhưng cương quyết vì ích chung, và đó cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Chiều kích công khai của lòng tin Kitô trong việc phục vụ và trong sự rõ ràng trong sáng cũng là nền tảng bản chất của Giáo Hội và nền tảng cuộc sống của từng tín hữu.

Trong nghĩa đó, Giáo Hội Italia đang lớn mạnh. Dĩ nhiên lòng tin này còn cần phải được củng cố để trở thành một lòng tin được suy tư hơn nữa, và được xây dựng trên các lý lẽ sâu xa. Và Giáo Hội Italia ý thức được nhiệm vụ phải đề nghị lòng tin đó với mọi người và phổ biến niềm vui của lòng tin.

Hỏi: Dĩ nhiên bây giờ còn là điều qúa sớm, nhưng Đức Cha có thể phác họa sơ các hoạt động của Đức Cha hay không?

Đáp: Lịch sử không nảy sinh với chúng tôi. Tôi ý thức rằng mình phải tiếp nhận tất cả những gì tốt đẹp nhất, mà các vị tiền nhiệm đã để lại, với một số tiêu chuẩn. Trước hết tôi nghĩ tới chân dung nội tại của Hội Đồng Giám Mục Italia là một cơ cấu của sự hiệp thông, của tình huynh đệ giám mục và phục vụ các giám mục trong các giáo phận của các vị. Trong lãnh vực này có các tiêu chuẩn cần củng cố với sự cương quyết, trong sự cộng tác với tất cả mọi Giám Mục để phục vụ các giáo đoàn địa phương. Hội Đồng Giám Mục là cơ quan soạn thảo chung các đường hướng mục vụ theo thói quen phong phú đã được củng cố từ bao thập niên qua. Dĩ nhiên các phối hợp mục vụ đó được các Giám Mục tiếp nhận vào trong giáo phận của các vị với trách nhiệm riêng không thể ủy thác cho ai khác. Hội Đồng Giám Mục chỉ phục vụ chứ không tự đặt mình trên các Giám Mục. Sau cùng Hội Đồng Giám Mục cũng là nơi các Giám Mục cùng nhau phân định lịch sử.

Hỏi: Giáo Hội Italia có gì để nói với xã hội ngày nay không thưa Đức Cha Chủ Tịch?

Đáp: Năm ngoái Giáo Hội đã triệu tập hội nghị toàn quốc tại Verona và mời gọi mọi người sống hy vọng. Thế rồi có những vấn đề cấp thiết, mà lịch sử ngày nay đề nghị với Giáo Hội và chúng ta đều biết như: nhiệm vụ thăng tiến các giá trị của sự sống, thăng tiến gia đình, quyền tự do giáo dục, thăng tiến công lý và hòa bình. Phải đem niềm hy vọng Kitô vào trong tất cả các thực tại đó.

Hỏi: Tại Italia càng ngày người ta càng coi Giáo Hội như điểm tham chiếu. Đức Cha có cảm thấy thế không?

Đáp: Tôi cảm thấy điều đó qua các tiếp xúc với người dân đơn sơ, trong các buổi gặp gỡ, qua thư từ, kể cả điện thư. Cả những người không tin cũng khích lệ chúng tôi đừng lùi bước liên quan tới các giá trị nền tảng của xã hội. Đa số người dân biết lẽ phải, và họ chờ đợi nơi Giáo Hội sự cứng rắn vững mạnh, mà đối với một phần của giới truyền thông xem ra không thích hợp, và giới truyền thông ồn ào thái qúa liên quan tới một vài vấn đề của cuộc sống.

Hỏi: Nhưng xem ra có những người không đồng ý như thế và coi Giáo Hội như là một đe dọa, Đức Cha nghĩ sao?

Đáp: Cần phải loại bỏ thành kiến cho rằng Giáo Hội muốn chỉ huy đất nước. Chính vì Giáo Hội không nhắm tới chính mình, nên càng tự do để lên tiếng bênh vực hạnh phúc của con người và của xã hội. Khi lên tiếng về các giá trị nòng cốt trong sự tôn trọng mọi người, Giáo Hội cố ý phục vụ sự thật về con người, là nền tảng của quốc gia và trọng tâm của ơn cứu độ. Thái độ của Giáo Hội là thái độ yêu thương đất nước. Nếu Giáo Hội tìm vinh quang cho chính mình, thì Giáo Hội sẽ ủng hộ và đi theo dòng đời chứ không đi ngược dòng đời như đang làm.

Hỏi: Cả trong số các tín hữu cũng có người nghĩ rằng không thể ngăn cản người khác sống theo các giá trị riêng của họ, Đức Cha nghĩ sao?

Đáp: Đây là một tiêu chuẩn sai lầm. Nhưng tôi có cảm tưởng là người ta đang suy nghĩ lại. Người ta bắt đầu hiểu rằng việc áp dụng khuynh hướng cá nhân, sau cùng, đi ngược lại thiện ích của tất cả mọi người. Trong lịch sử mới đây Giáo Hội đã luôn luôn loan báo và bảo vệ sự tự do cá nhận chống lại các ý thức hệ độc tài thuộc bất cứ loại nào. Trong bầu khí của khuynh hướng tự do cá nhân chủ nghĩa thái qúa hiện nay, Giáo Hội nhắc cho mọi người nhớ rằng sự tự do không phải là một điều tuyệt đối: cá nhân không sống một mình, mà luôn luôn sống trong tương quan với người khác. Thật ra sự lật ngược này lại dẫn đưa tới một ý thức hệ trái nghịch khác: con người không phải như một bánh xe trong một guồng máy nữa, mà là một thực thể tự đủ cho chính mình, và được tháo cởi khỏi mọi ràng buộc.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội cũng nhắc cho Nhà Nước nhớ các bổn phận của mình chứ, nhưng mà không phải tất cả mọi người đều đồng ý như vậy...

Đáp: Tưởng nên nhắc lại rằng các lựa chọn cá nhân luôn luôn có chiều kích cộng đồng. Một chính quyền phải bảo vệ sự tự do cá nhân cho thiện ích chung. Thiện ích chung không phải là tổng số các đặc lợi cá nhân, mà là một cơ cấu hài hòa dựa trên các giá trị có khả năng tạo ra hạnh phúc cho tất cả mọi người như: gia đình và việc tôn trọng sự sống, sự tự do giáo dục con cái và tự do tôn giáo. Một chính quyền cho rằng mọi sự đều tùy thuộc nơi sự lựa chọn của cá nhân, và chỉ đứng nhìn không can thiệp, thì chính quyền đó không nghĩ tới công ích.

Hỏi: Điều này cũng có giá trị đối với gia đình có phải thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Chắc chắn rồi. Hợp thức hóa bất cứ liên hệ nào có nghĩa là đi ngược lại một kinh nghiệm ngàn đời, một truyền thống phổ quát thừa nhận gia đình gồm một người nam và một người nữ, rộng mở cho sự sống như là môi trường không thể bỏ qua được đối với việc truyền sinh và giáo dục sự sống. Lịch sử giao phó cho chúng ta gia tài tự nhiên đó: nó là một dữ kiện khách quan. Cộng đoàn xã hội thừa nhận mọi gia đình mới như là chủ thể quan trọng, như là nhân tố xây nền cho chính sự sống còn của xã hội, và việc bảo vệ gia đình là điều thiết yếu cho chính sự ổn định và dấn thân công cộng của xã hội. Các quyền lợi của gia đình phát xuất từ nhiệm vụ xã hội đó. Bảo vệ gia đình là lợi ích cho chính xã hội, vì khi xã hội bảo vệ gia đình là xã hội bảo vệ chính mình. Đó là lý do tại sao phải nhấn mạnh trên các đường lối chính trị cũng cố và bênh vực gia đình trong tất cả mọi cơ cấu chính quyền và tổ chức xã hội, như là thiện ích qúy báu của một quốc gia.

Hỏi: Người ta nói nhiều đến sự cần thiết phải đưa ra các luật lệ mới như luật liên quan tới sự sống chung, Đức Cha thấy thế nào?

Đáp: Không ai lên án các vụ sống chung. Nhưng tạo ra chủ thể luật lệ công cộng mới, với các quyền ngang với quyền gia đình, là điều không thể chấp nhận được. Luật lệ cũng có nhiệm vụ sư phạm nữa. Giới trẻ vốn đã lạc hướng, khi thấy Nhà Nước đưa ra các mẫu gia đình khác nhau như thế lại càng lạc hướng hơn, và chắc chắn là họ không được trợ giúp để trở thành các công dân trưởng thành. Nhiều điều đòi hỏi đã được bảo đảm trong quyền tư, nhưng phải khước từ việc nhân danh một ý thức hệ để tạo ra một chủ thể mới ngang hàng với gia đình.

Hỏi: Còn có một nút thắt khác nữa được nói tới nhiều đó là việc giết người êm dịu, lập trường của Giáo Hội ra sao, thưa Đức Cha?

Đáp: Một xã hội mà chấp nhận sự tự do tuyệt đối không có hạn chế đối với cái chết là một xã hội bước trên con đường nổ tung: vì sự tự do khỏi mọi ràng buộc là giả thiết cho mọi hình thức bạo lực, đàn áp và xung khắc. Nền văn hóa ngày nay cần phải biết chấp nhận giới hạn. Kitô hữu chúng ta gọi đó là ”tính chất thụ tạo của con người”, một người không tin có thể tìm thấy giới hạn trong ý thức mình không thể là chủ nhân tuyệt đối của người khác cũng như của chính mình. Khi loại bỏ các giá trị khách quan, mà một xã hội có bổn phận thừa nhận, thì sự tự do lại quay ra chống lại chính nó.

Hỏi: Thưa Đức Cha, trong một đất nước bị xâu xé trong mọi chuyện như Italia, còn có thể tìm ra một sự đồng thuận liên quan tới các nguyện tắc nền tảng hay không?

Đáp: Khi Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh trên sự cần thiết mở rộng các khoảng không cho lý trí, ngài muốn nói rằng không được giản lược lý trí thành dụng cụ tìm hiểu hoạt động của các sự vật mà thôi. Còn có nhiều chân trời khác nữa, mà lý trí có thể khám phá như: ý nghĩa của sự sống, ý nghĩa của thế giới, ý nghĩa của niềm vui, ý nghĩa của công việc làm, và ý nghĩa của cái chết. Lãnh vực định đoạt nhất cho việc tìm tòi của lý trí là vấn đề luân lý, là khả năng nhận biết điều thiện điều ác, bằng cách dùng lý trí để tìm hiểu các giá trị. Cần phải tái chiếm lại chiều kích bản chất tự nhiên của con người, đang bị ý thức hệ văn hóa tương đối ngày nay tấn kích. Hậu qủa là người ta tìm cách thay thế bất cứ giá trị tuyệt đối nào bằng các lợi lộc và ước muốn nhất thời, mau qua, gây chia rẽ, xâu xé bất tận. Điều tệ hại: đó là giới chức chính trị đã quên rằng mục đích của chính trị là công ích, chứ không phải việc theo đuổi các ước muốn.

(Avvenire 11-3-2007)

Linh Tiến Khải

Chúa nhựt Chúa chiên lành

Chúa nhựt Phục sinh thứ IV được dành làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu, Vào lúc mới thành lập (năm 1965), mục tiêu cầu nguyện nhắm tới ơn gọi linh mục, theo gương Đức Giêsu là vị mục tử nhân lành. Dần dần, ý chỉ cầu nguyện được mở rộng đến những ơn gọi tận hiến khác nữa. Dù vậy, tại Vatican, ngày này được đánh dấu với việc truyền chức linh mục cho những chủng sinh thuộc chủng viện Rôma hoặc thuộc về những tu hội và đoàn thể nằm trong giáo phận. Lần này, số tân chức là 22 vị (trong đó 11 xuất thân từ đại chủng viện, 8 thuộc chủng viện Redemptoris Mater của phong trào Tân dự tòng). Điều này giải thích được số tuổi cao thấp khác nhau (trẻ nhất là 26 và cao niên nhất là 51), cũng như những quốc tịch khác nhau: Italia, Philippin, Peru, Ecuador, Republica Dominicana, Slovakia. Thánh lễ diễn ra bên trong đền thờ thánh Phêrô lúc 9 giờ sáng, do đức thánh cha chủ sự, với sự phụ lực của Hồng y tổng đại diện và các giám mục phụ tá trong nghi thức phụng vụ. Đến 12 giờ trưa, đức Bênêđictô XVI đã tiến ra cửa sổ văn phòng để đọc kinh kính Đức Mẹ. Ngài mời gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu, đặc biệt cho các linh mục vừa thụ phong, trong tinh thần phục vụ sự thông hiệp Giáo hội, chủ đề của sứ điệp năm nay. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ:

 

Anh chị em thân mến


Hôm nay, chúa nhựt Phục sinh thứ IV, chúa nhựt Mục tử nhân lành, là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi. Tất cả các tín hữu được mời gọi cầu nguyện cách riêng cho các ơn gọi vào đời linh mục và thánh hiến. Sáng nay, tại đền thờ thánh Phêrô, tôi hân hạnh truyền chức cho 22 tân linh mục. Tôi xin thân ái gửi lời chào thăm các tân linh mục cùng với các thân bằng quyến thuộc, và tôi xin mời anh chị em hãy nhớ rằng Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi đích danh nhiều người, cũng như xưa kia Người đã kêu gọi các tông đồ trên bờ hồ Galilê, để trở thành “những kẻ đánh lưới người”, nghĩa là những kẻ cộng tác trực tiếp với Chúa trong việc loan báo Tin mừng và phục vụ Nước Chúa vào thời buổi hôm nay. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các linh mục được ơn bền đỗ: xin cho họ trung thành trong việc cầu nguyện, cử hành Thánh lễ với lòng nhiệt thành mỗi ngày một mới, lắng nghe Lời Chúa và thấm nhuần tâm tình và cung cách của Chúa Giêsu Mục tử nhân lành. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chuẩn bị vào tác vụ linh mục và những nhà đào tạo tại các chủng viện ở Roma, Italia và trên khắp thế giới; chúng ta hãy cầu nguyện cho các gia đình, xin cho hạt giống ơn gọi linh mục được nảy mầm và tăng trưởng trong các gia đình.


Năm nay, đề tài của Ngày Thế giới cầu nguyện cho ơn gọi là “Ơn gọi nhằm phục vụ Hội thánh hiệp thông”. Khi trình bày mầu nhiệm Hội thánh vào thời nay, Công đồng Vaticanô II đã đặc biệt sử dụng thuật ngữ “hiệp thông”. Bối cảnh này làm nổi bật sự phong phú đa dạng của các đặc sủng và tác vụ trong Dân Thiên Chúa. Tất cả mọi tín hữu đã được rửa tội đều được kêu gọi phục vụ sự hiệp thông. Kẻ đầu tiên mang trách nhiệm duy trì sự hiệp thông công giáo là Giáo hoàng, kế vị thánh Phêrô và giám mục Rôma; cùng với ngài, các giám mục, những người kế vị các thánh tông đồ, cũng là những kẻ bảo vệ và giảng dạy sự hợp nhất, với sự hợp tác của các linh mục. Các người tận hiến và tất cả các tín hữu cũng phục vụ sự hiệp thông Giáo hội. Ở trung tâm của Hội thánh hiệp thông là bí tích Thánh thể: từ bí tích cao trọng này, những ơn gọi khác nhau đều múc lấy nghị lực tinh thần để xây dựng thân thể duy nhất của Giáo hội bằng đức ái.


Giờ đây, chúng ta hãy hướng về đức Maria, thân mẫu của Mục tử nhân lành. Mẹ đã mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chúa bằng lời thưa: “này đây, con là nữ tì của Chúa” (Lc 1,28). Xin Mẹ giúp tất cả mọi người biết vui vẻ đón nhận lời Chúa Kitô mời gọi trở thành những môn đệ của Người, với niềm thao thức muốn họp thành “một trái tim và một linh hồn” (xc Cv 4,32).


Tưởng nên nhắc lại rằng trong Thánh lễ làm phép dầu (hôm thứ năm Tuần thánh vừa qua), đức thánh cha đã diễn giảng về chức vụ linh mục dựa theo ý nghĩa phẩm phục mặc khi dâng lễ. Bài giảng trong Thánh lễ hôm qua nói đến ý nghĩa sự dâng hiến, dựa theo bài đọc Tin mừng: “Người mục tử tốt lành hiến ban mạng sống cho các chiên” (Ga 10,11). Thánh sử Gioan đã dùng động tư “hiến ban” (tithenai) nhiều lần trong chương này (câu 15.17.18), gợi lên cử chỉ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc ly, khi ngài “cởi áo” và “mặc lại” (xc. Ga 13,4.12). Chúa Giêsu muốn nói rằng ngài tự do định đoạt cuộc đời của mình, có thể trao hiến và lấy lại cách tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành đã trao hiến mạng sống của mình cho đoàn chiên (nghĩa là cho chúng ta), khi hiến tế trên Thập giá. Chúa Giêsu biết các chiên của ngài, và các chiên biết ngài, cũng như ngài biết Cha và Cha biết ngài (xc Ga 10,14-15). Đây không phải là chuyện hiểu biết theo lý thuyết, nhưng là mối tương quan sâu đậm, một sự hiểu biết của con tìm, của kẻ biết yêu và được yêu, của kẻ trung tín và đáng tin cậy; một sự hiểu biết yêu thương, nhờ đó Chủ chiên mời gọi các môn đệ hãy đi theo mình, một sự hiểu biết thân tình được diễn ra qua việc trao ban sự sống đời đời.


Hướng về những ứng sinh sắp thụ phong, đức thánh cha nói tiếp: “Mong sao cho niềm xác tín rằng Chúa Kitô không bỏ rơi chúng ta, và không chướng ngại nào có thể ngăn cản việc thực hiện kế hoạch cứu độ, sẽ trở thành động lực an ủi và hy vọng cho chúng ta, kể cả vào lúc gặp trăn trở. Lòng nhân hậu của Chúa luôn ở với ta, và rất mạnh mẽ. Bí tích truyền chức đưa ta vào việc tham gia vào sứ mạng của Chúa Kitô: chúng ta được kêu gọi gieo vãi hạt giống Lời Chúa, phân phát lòng thương xót của Chúa, nuôi dưỡng các tín hữu bằng lương thực từ bàn của Mình và Máu của Ngài. Để có thể trở thành những thừa tác xứng đáng, các con hãy tìm cách nuôi dưỡng mình liên lỉ từ bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu. Nhờ việc năng tiếp xúc với bí tích này, trường dạy sự thánh thiện, các con sẽ khám phá ra tình yêu dồi dào và âu yếm của Thầy chí thánh. Nếu biết ngoan ngoãn lắng nghe Chúa, nếu biết trung thành đi theo Chúa, các con sẽ biết cách thức diễn tả tình yêu của Chúa và lòng say mê cứu rỗi các linh hồn ra nếp sống hằng ngày. Như vậy, mỗi linh mục sẽ trở thành một mục tử tốt lành, sẵn sàng trao hiến mạng sống cho Chúa.


Trong phần cuối của bài giảng, vị chủ tế móc nối tư tưởng với bài đọc thứ nhất, trích từ sách Tông đồ công vụ, nêu bật rằng “các môn đệ đầy tràn niềm vui và Thánh Linh” (Cv 13,52). Bất chấp những hiểu lầm đố kị, người tông đồ của Chúa Kitô không mất niềm vui; trái lại, họ trở thành chứng nhân của niềm vui phát xuất từ chỗ sống gần Chua, sống trong tình yêu với Chúa và với tha nhân. Các con thân mến, Chúa Giêsu ngày hôm nay lặp lại rằng: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”. Các con hãy tiếp đón tình bạn đó và bồi dưỡng nhờ bí tích Thánh Thể.


Bình Hoà

1000 bạn trẻ đã tham dự Ngày Ơn Gọi tại giáo phận Đà Nẵng

 

ĐÀ NẴNG -- Sáng ngày 29 tháng 4 năm 2007 vừa qua, Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu – Đà Nẵng trở nên chật chội so với tiếng cười tiếng hát, những tràng pháo tay vang dội và những điệu múa của gần 1 ngàn bạn trẻ, cùng quý cha, quý tu sĩ nam nữ trong ngày cầu nguyện và giới thiệu ơn gọi do giáo phận Đà Nẵng tổ chức.


7g sáng, còn nửa tiếng nữa mới đến giờ khai mạc, song tại khuôn viên của Trung tâm hành hương các bạn trẻ đã về hầu như kín sân. Không khí của ngày hội ơn gọi nóng dần lên trong lời chào mừng và tiếng mời gọi dập dồn của ban tổ chức. Các bạn mau mắn trở về các nhóm đã được chia sẵn một cách rập ràng.


Tại lễ đài, những tấm panô với những hình ảnh của ngày đại hội như nhảy múa chào đón các bạn trẻ. Và ấn tượng nhất với các bạn đó là hai câu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Đừng sợ, Đức Kitô Người không tước đoạt gì của bạn và đừng sợ, Đức Kitô Người trao tặng bạn tất cả. Ý tưởng đó làm cho các bạn trẻ cảm nhận một Giêsu gần gũi hơn, một Giêsu không xa lạ nhưng trở nên bạn hữu và thân tình hơn. Tại các gốc cây, các Hội Dòng cũng tận dụng để treo các poster của Dòng, tất cả làm cho khuôn viên nhà thờ Trà Kiệu sáng lên và tưng bừng.


7g30 phút, cha Tổng Đại Diện cũng là cha Giám đốc Ơn gọi của Gp.Đà Nẵng khai mạc ngày ơn gọi. Quý chị em đệ tử dòng Phaolô Đà Nẵng góp phần làm cho phần thánh hoá trang trọng và sốt sắng hơn bằng những điệu múa linh thánh. Sau đó, cha Giuse Lê Công Đức trưởng ban tổ chức đã chào mừng các bạn và chúc các bạn một ngày thật vui và ý nghĩa.


Với mục đích cho các bạn trẻ hiệp thông cách sâu sa với giáo hội qua đời sống tu trì và các bạn trẻ có dịp gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn, giao lưu trực tiếp và lắng nghe chứng từ cá nhân.Năm nay hình thức tổ chức mới hơn. Các nhóm nam nữ được tách riêng và chia thành 8 nhóm, 4 nam và 4 nữ. Mỗi nhóm ở một địa điểm riêng biệt sẽ được các Dòng tu lần lượt giới thiệu về dòng của mình. Với sự hiện diện của 9 Dòng trong giáo phận gồm Dòng thánh Phaolô thành Chartres, dòng Mến Thánh Giá Huế, Dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn, Dòng Con Đức Mẹ Đi viếng, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Truyền Giáo Vinh Sơn, dòng Ngôi Lời, Dòng Đaminh và Dòng Thánh Thể. Sáu hội dòng ngoài giáo phận gồm: Nữ Tỳ Thánh Tâm chúa Giêsu, Nữ Tỳ Thánh Giuse, Dòng Nữ Đaminh Rosa Lima, Dòng Thánh Tâm Huế, Dòng Khổ Nạn và Dòng Tông đồ Cầu Nguyện cho Ơn gọi. Các Dòng Nam sẽ giới thiệu tại các nhóm nam và các Dòng nữ giới thiệu về đời sống tu trì cho các thanh nữ. vì được lắng nghe trực tiếp và được đặt câu hỏi khi nghe giới thiệu xong, các bạn trẻ thay nhau hỏi về điều kiện gia nhập Dòng. Và vì thời gian không cho phép nên còn rất nhiều câu hỏi của các bạn được các Dòng hẹn trả lời sau.


Có thể nói rằng, ngày hôm nay giáo phận đã dọn cho các bạn trẻ của mình một bữa tiệc thịnh soạn với 16 hội dòng hiện diện, các bạn trẻ sau khi lắng nghe sẽ định hướng cho tương lai vào một Dòng thích hợp với khả năng của mình. Các tu sĩ nam nữ, những người đã đi trước đã đến hướng dẫn cho các bạn cách định hướng và những bước chân ấy đã ra đi hôm nay dừng lại mời gọi các thế hệ trẻ hãy tiếp nối sứ mạng của Thầy Giêsu Chí Thánh. Trong những cảm tưởng mà các bạn trẻ để lại sau ngày Ơn gọi, hầu như các bạn rất hài lòng với ngày hôm nay. Bạn Hoàng Thạch ở Phú Thượng viết rằng: “ Em đã học hỏi được rất nhiều và có một ấn tượng sâu sắc”. Hay tâm tình đơn sơ của bạn Lê Văn Vui ở Hoằng Phước: “ Ngày hôm nay con có rất nhiều ấn tượng, nhưng con không diễn tả hết được bằng lời”. Và còn rất nhiều cảm tưởng của các bạn trẻ khác. Ước chi ngày hôm nay sẽ là một khởi mới đầy tốt đẹp cho các ơn gọi tương lai của Giáo hội, đặc biệt của giáo phận Đà Nẵng, nơi mà Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri chia sẻ với các bạn rằng: chúng ta đang thiếu ơn gọi.


Trong bài giảng, Đức Cha kể về La Nang, một giáo họ đã xây nhà xứ 20 năm để đón cha xứ, nhưng cũng là ngần ấy năm giáo dân chờ đợi trong mệt mỏi, cho đến nay nhà xứ đã xuống cấp nhưng linh mục vẫn chưa có. Đó là tâm tình của đàn chiên đang rất khao khát một chủ chăn. Các bạn đang hiện diện nơi đây sẽ là những người chủ chăn cho những nơicòn vắng bóng các vị chủ chăn. Đức cha cũng mong rằng ngày hôm nay với những cố gắng của mình ban ơn gọi của Giáo phận mong các bạn lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi mình giữa những ồn ào và xáo trộn, các bạn nhận ra tiếng của NGƯỜI và quảng đại đáp trả lời mời gọi ấy.


Rồi ngày hạnh ngộ cũng đến lúc chia tay, lời quyết tâm sống yêu thương phục vụ được các bạn xác tín mạnh mẽ hơn, cương quyết hơn trong năm sống đạo này. Những ơn gọi trẻ của Giáo Hội lại trở về gia đình với công việc học hành, với bổn phận của một người con, nhưng chắc chắn rằng từ chiều hôm nay các bạn đã sống khác, đã nói khác, đã hành động khác, vì các bạn đã được chính Đức Giêsu chiếm hữu qua ước muốn trở thành một tu sĩ. Cầu chúc cho những ước muốn đó ngày càng trở nên mạnh mẽ trong tâm hồn những người quảng đại với Thầy Chí Thánh Giêsu.

 

Sr Minh Nguyên

 

 

GÍÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

NGÀY QUỐC TẾ CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI

LẦN THỨ 44

 

Nhân ngày Quốc tế Cầu nguyện cho Ơn gọi tận hiến lần thứ 44, Chúa nhật 29.4.2007, lễ Chúa Chăn Chiên Lành, tại Nhà Chung giáo phận Phú Cường, Ban Ơn gọi của giáo phận Phú Cường đã tổ chức một ngày họp mặt dành cho các bạn trẻ trong toàn giáo phận có ý muốn sống ơn gọi tu trì. Ngày họp mặt quy tụ hơn 800 bạn trẻ. Như vậy số bạn trẻ tham dự ngày cầu nguyện cho ơn gọi năm nay đông hơn năm 2006 gần gấp đôi. Thành phần tham dự bao gồm các thành phần: đệ tử, thỉnh sinh, tập sinh các dòng tu nam nữ; các nam dự tu chủng viện; các bạn trẻ đang học từ lớp 9 trở lên.

 

8 giờ 30 sáng, chương trình được khởi động bằng những bài hát, những vũ điệu vui tươi. Ngay sau những giây phút làm quen và giới thiệu thành phần tham dự, ngày gặp gỡ được bắt đầu bằng giây phút cầu nguyện, xin Chúa Giêsu mục tử đón nhận các tâm hồn đang hiện diện và làm cho ý Chúa được thể hiện nơi những tâm hồn này, những tâm hồn muốn tham dự vào chức vị mục tử của Chúa. Đồng thời xin Chúa Thánh Thần soi sáng để mỗi một người nhận ra tiếng Chúa mà dấn thân sống cho ơn gọi của Chúa cách trọn vẹn nhất, hoàn hảo nhất.

Ngay sau khi một bạn trẻ đại diện chúc mừng 37 năm linh mục của linh mục Giuse Phạm Quang Tòng, Giám Đốc Nhà Chung, linh mục Giuse Phan Trọng Quang, Bề Trên tu viện Lời Chúa trình bày hình ảnh đời tu. Khoảng 9 giờ 45, linh mục Giuse Nguyễn Tấn Tước, Đặc trách Ơn gọi tiền Chủng viện tiếp nối chương trình nói về ý nghĩa của Ơn gọi tu trì. Cả hai bài nói chuyện của hai linh mục đều nhằm: Giúp các tham dự viên hiểu rằng, Ơn gọi tận hiến là ơn gọi cao quý vì đến từ Thiên Chúa, được Thiên Chúa mời gọi và tuyển chọn. Đó cũng là đời sống mà những người tu phải làm mọi cách để khắc họa lại hình của Chúa Giêsu mục tử. Dù đến từ Thiên Chúa, Ơn gọi  tận hiến lại do con người đáp trả cách tự do và tự nguyện.

 

Khoảng 10 giờ 30, các tham dự viên đã đón chào và chúc mừng 42 năm linh mục của Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ. Năm 1965, Đức Cha chịu chức linh mục đúng vào ngày hôm nay, 29.4. Sau khi ban huấn từ, Đức Cha Phêrô đã chủ sự thánh lễ đồng tế. Trong thánh lễ, Đức Cha nhắc lại Sứ điệp ngày Quốc tế Ơn gọi lần thứ 44 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Đức Cha Phêrô nói: “Với chủ đề Ơn gọi là để phục vụ cho Giáo Hội hiệp thông, Đức Thánh Cha đã mời gọi tất cả những ai sống đời tận hiến và hướng tới đời sống này đều phải ra sức dấn thân để phục vụ Giáo Hội, phục vụ con người. Nhưng không phải phục vụ một cách riêng lẽ mà là phục vụ trong tinh thần chan hòa yêu thương, đón nhận nhau. Ông Abraham và ông Môisen là những khuôn mặt đặc biệt của ơn gọi, để qua đó, Thiên Chúa chuẩn bị cho dân của Chúa, và cho Giáo Hội hôm nay lãnh nhận ơn cứu độ. Ông Abraham và ông Môisen được Đức Thánh Cha nhắc đến trong sứ điệp Ơn gọi lần này, như những tấm gương phục vụ danh thánh Chúa, phục vụ lợi ích con người, nhất là mang ơn cừu độ của Chúa đến cho người khác. Như hai ông, chúng ta cũng được mời gọi tận hiến đời mình, phục vụ Thiên Chúa, phục vụ con người hôm nay…”.

 

Buổi chiều bắt đầu lúc 13 giờ 30 với phần sinh hoạt, giao lưu giữa các linh mục, tu sĩ có mặt cùng các bạn trẻ và giữa các bạn trẻ với nhau.  Cũng trong thời gian sinh hoạt này, tại những điểm tư vấn được đặt rải rác trong khuôn viên Nhà Chung do các linh mục, các tu sĩ phụ trách, sẽ đáp ứng các nhu cầu của bất cứ bạn trẻ nào cần được tư vấn về ơn gọi, hay các vấn đề liên quan đến cuộc sống, nhất là liên quan đến ơn gọi tu trì…

Tuy đã có hình thức tư vấn, từ 14 giờ đến 15 giờ 30, các bạn trẻ còn có một khoảng thời gian đối thoại với các linh mục, các tu sĩ cách hết sức chân tình, cởi mở. Tiết mục trao đổi đối thoại này, đã làm cho bầu khí của ngày gặp gỡ sôi động hẳn lên. Có những tràn cười như không dứt sau nhiều câu hỏi của nhiều bạn trẻ vừa vui nhộn, vừa đơn sơ, cùng với những câu trả lời tương đối nhẹ nhàn, dí dỏm, duyên dáng của các linh mục, các tu sĩ. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là, trong từng câu trả lời của mình, dù dí dỏm hay nghiêm túc, các linh mục, các tu sĩ đều cố gắng chuyển tải một sứ điệp nào đó cần thiết cho sự hiểu biết về đời tu mà các bạn trẻ cần được trang bị. Tuy thời gian có hạn, mà các thắc mắc từ phía các bạn trẻ lại nhiều, vì thế, các câu trả lời đều ngắn gọn, súc tích. Dù vậy, những câu trả lời ấy vẫn luôn luôn hàm chứa lời mời gọi các bạn trẻ hãy can đảm bước theo Chúa Kitô trong đời tận hiến…

 

Ngày gặp gỡ và cầu nguyện cho ơn gọi tận hiến kết thúc bằng giờ cầu nguyện. Hướng về Chúa, các bạn trẻ được mời gọi hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân được quy tụ và gặp gỡ nhau. Xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Xin Chúa soi sáng để các bạn trẻ khám phá ra ơn gọi đời mình…

 

Vũ Phượng Bằng

 

Mừng Lễ Quan Thầy Giuse Thợ tại Giáo phận Kontum.

Kontum, Việt Nam (1/05/2007) - Ngày 01 tháng 5 năm 2007, Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh, vị chủ chăn Giáo phận Kontum, đã dâng lễ trọng thể kính Thánh Giuse Thợ tại 3 nơi trong Giáo phận Kontum.

1- Giáo xứ La Sơn mừng lễ Thánh Quan Thầy Giuse, bổn mạng Giáo xứ và 85 thành lập và thêm sức cho 228 em.

5 giờ 30 sáng ngày 01.5.2007, ngày Giáo Hội mừng trọng thể Thánh Cả Giuse, bổn mạng của các gia trưởng, Ðức Cha Micae cùng Cha thư ký từ nhà thờ Thánh Tâm trực chỉ đi nhà thờ La Sơn, cách Thành phố Pleiku 14 km theo quốc lộ 14 về hướng Ðông Nam. Hôm nay, Giáo xứ La Sơn, thuộc giáo hạt Pleiku, Giáo phận Kontum, mừng trọng thể Lễ Thánh Quan Thầy Giáo xứ và đặc biệt mừng 85 năm thành lập giáo xứ.

La Sơn, cái tên thân thương mang nhiều kỷ niệm, thân thương và kỷ niệm bởi nó đã in khắc tên của vị linh mục tiên khởi sáng lập giáo xứ. Chữ "La" là lấy từ cuối của Linh mục Nicôla (Cố Cận) và Chữ "Sơn" là ý nói nơi đây là miền núi non hiểm trở của rừng núi Tây Nguyên.

Ðược biết Giáo xứ La Sơn được thành hình đầu Mùa Xuân năm 1922, nghĩa là cách đây 85 năm, khi ấy cố Nicôla Cận đã cùng một số anh chị em tín hữu từ tỉnh Bình Ðịnh lên đây lập nghiệp sinh sống, với gần 20 gia đình.

Với dòng thời gian thăng-trầm đáng nhớ, tưởng cũng cần nhắc lại trong ngày vui hôm nay như để nhớ ơn các vị tiền bối đã có công vun trồng Giáo xứ :

- Năm 1930, Linh mục Báu đến thay Cố Nicôla Cận, ngài cho khai khẩn đồng ruộng và lập vườn nhà chung (trồng cà phê).

- Năm 1934 Linh mục Giuse Lê Ðình Bang làm chánh xứ, ngài còn phụ trách thêm một số họ đạo dọc theo Quốc lộ 19 và Quốc lộ 14 lên đến Ban Mê Thuột.

- Năm 1944 Linh mục Châu (người Bahnar) coi sóc được 1 năm.

- Từ năm 1945 đến 1956: thiếu chủ chăn coi sóc, phải trực thuộc cha xứ Phú Thọ là Cha Ngô Ðình Thận.

- Sau biến cố Ðất Nước chia đôi năm 1954, Giáo xứ có thêm 59 gia đình theo Linh mục Giuse Maria Ðỗ Bá Ấn từ tỉnh Quảng Bình vào định cư tại đây năm 1957. Thời gian này số anh chị em Quảng Bình là 420 người cùng 20 gia đình người Bình Ðịnh địa phương xây dựng một giáo xứ đầy tình hiệp thông và yêu thương, với số giáo dân là hơn 500. Cũng thời điểm này, Cha Giuse Maria Ðỗ Bá Ấn cùng với giáo dân xây dựng nhà ở, đường xá và một ngôi nhà thờ nhỏ kiên cố đủ để cho số giáo dân tham dự thánh lễ, được khánh thành ngày 8.12.1961, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm và Giáo xứ cũng chọn làm thánh quan thầy Giáo xứ.

- Năm 1962, Linh mục Ðỗ Bá Ấn nghỉ hưu, Giáo xứ trực thuộc Giáo xứ Phú Thọ do Cha Vinh Sơn Nguyễn Viết Nam chánh xứ.

- Năm 1967, Linh mục Tôma Vũ Khắc Minh về làm chánh xứ, để phù hợp với đa số là lao động chân tay, Ngài và Giáo xứ chọn thánh Giuse Thợ (01.05) làm bổn mạng cho đến ngày nay.

- Năm 1972, Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Bá Quý về làm chánh xứ.

- Tháng 3.1975 bà con giáo dân và Cha sở vì lo sợ chiến tranh đã di tản đi về xuôi... sau đó, đa số bà con quay trở lại Giáo xứ.

- Từ năm 1975 đến nay không có cha chánh xứ, chỉ có các cha xứ khác kiêm nhiệm. Hiện nay Cha Tôma Nguyễn Văn Thượng, chánh xứ Thánh Tâm đang kiêm nhiệm.

- Năm 2005 nhà thờ mới được xây dựng khang trang nhờ sự quan tâm lo lắng của Ðức Cha Micae, sự góp công góp sức của anh chị em giáo dân trong giáo xứ và anh chị em kiều bào đã từng sống tại La Sơn đóng góp. Tạ ơn Chúa.

- Giờ đây Giáo xứ đã có gần 2,500 tín hữu, với 495 gia đình, xuất thân từ Giáo xứ có 5 linh mục, 6 đại chủng sinh và nam tu, 5 nữ tu... Ðặc biệt hôm nay có 4 linh mục là những người con của Giáo xứ về tham dự, là Cha Gioan Baotixita Lê Minh Trí, CSsR, Giacôbê Trần Tấn Việt và Barthôlômêô Nguyễn Ðình Phước, CSsR trong Giáo phận và Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Hoàng Hải, thuộc Giáo phận Huế cũng về tham dự. Vắng Cha Gioan Baotixita Trần Tấn Linh (Giáo phận Nha Trang).

Ðúng 6 giờ, Ðức Cha Micae cùng 7 linh mục đồng tế theo sau đoàn rước trong tiếng chuông, tiếng trống tiến vào nhà thờ. Hôm nay, ngoài 228 em chịu phép thêm sức còn có đông đảo nam nữ tu sĩ và anh chị em giáo dân tham dự.

Trong bài giảng đức cha Micae nhấn mạnh đến 2 điểm sau đây:

- Ðời sống chứng nhân của người kitô hữu. 228 em lãnh nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần cùng với 200 cha mẹ đỡ đầu phải là một lực lượng làm thay đổi xã hội chung quanh nên tốt hơn, đẹp hơn và nhiều người được nghe Danh Thánh Chúa hơn.

- Ðược nuôi bằng Lời Chúa, bằng Mình Máu Chúa và bằng chính cuộc sống phục vụ trong yêu thương.

Thánh lễ trọng thể diễn ra trong 2 giờ 20 phút, sau lễ Ðức Cha chụp hình lưu niệm đến 9 giờ, sau cùng là bữa agapé nhẹ nhàng - những ổ mì, xôi cúc... - mừng lễ.

 

2- Ngày "Người Cha Công Giáo" tại Giáo hạt Pleiku:

Sau lễ Bổn Mạng, Thêm Sức, mừng 85 năm thành lập Giáo xứ La Sơn, Ðức Cha Micae cùng Cha Thư Ký quay trở lại Thành phố Pleiku để tham dự buổi gặp mặt gia trưởng trong Giáo hạt Pleiku tại Nhà thờ Thăng Thiên. Năm nay, có hơn 500 anh em gia trưởng về dự ngày truyền thống.

Suốt buổi sáng, anh em gia trưởng học hỏi Thư Mục Vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: "Sống đạo: Yêu thương và Phục Vụ".

Ðúng 10g30, Ðức Cha Micae, cha hạt trưởng Phêrô và 5 linh mục trong giáo hạt cử hành thánh lễ với các gia trưởng. Nội dung bài giảng Ðức Cha nhấn mạnh:

- Chỗ đứng và trách nhiệm người cha trong gia đình và xứ đạo.

- Ðặc biệt qua một số câu hỏi được Ðức Cha Micae nêu lên đã giúp các người cha tham dự nhận ra: hiện nay, nhiều gia đình công giáo (họ là đa số trong đó) ngày càng lơ là trong việc đọc kinh gia đình, biếng trễ đọc Sách Thánh, ít tham gia việc chung trong xứ họ, dành quá ít thời giờ cho con cái. Ðặc biệt ít quan tâm tới việc chuẩn bị và tạo điều kiện cho con cái theo đuổi ơn gọi tu trì.

13g30 các gia trưởng lại tiếp tục chia sẻ những kinh nghiệm đời sống gia đình, chia sẻ những khắc khoải lo âu của các bậc làm cha làm mẹ cho nhau để cùng nhau sống đức tin và nhất là củng cố và phát huy tinh thần người Cha Công Giáo trong xã hội phát triển nhưng không ít tệ nạn hôm nay.

Buổi họp mặt kết thúc lúc 4 giờ chiều.

 

3- Ngày "Người Cha Công Giáo" tại Giáo hạt Kontum:

Sau lễ và cơm trưa Ðức Cha Micae cùng Cha Thư Ký về Tòa Giám Mục, cách Pleiku 50 km để dâng thánh lễ cho anh em gia trưởng tại giáo hạt Kontum. Giáo hạt Kontum tổ chức ngày gia trưởng truyền thống tại nhà thờ Chính Tòa.

Ðúng 15 giờ 00, Ðức Cha Micae đồng tế cùng Cha Tổng Ðại Diện, cha Hạt Trưởng và 7 linh mục trong giáo hạt, và hơn 800 anh em là "người cha công giáo" tham dự.

Trong bài giảng Ðức Cha nhấn mạnh các điểm chính:

- Tạ ơn Chúa các người cha trong giáo phận đã dành nhiều thời giờ học tập, đào sâu Thư Mục Vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: "Sống đạo là Yêu thương và phục vụ".

- Sau đó, ngài nói về "người cha" là chỗ dựa của gia đình, là mẫu gương cho con cái noi theo.

- Ðể giúp gia đình, con cái gắn bó với xứ đạo, với Giáo hội và hăng say loan báo Tin Mừng, chính người cha cần đi tiên phong, biết dành thời giờ cho con cái, cho xứ đạo và hăng say tham gia mọi sinh hoạt trong xứ đạo. Ðặc biệt, Người cha cần sống tinh thần truyền giáo cách triệt để và nuôi dưỡng tinh thần truyền giáo trong chính gia đình mình.

Thánh lễ kết thúc lúc 4g30.

Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo phận Kontum một vị mục tử hết lòng vì đoàn chiên, rong ruổi hàng trăm km để dâng lễ và hàng giờ để cử hành lễ và giảng lễ.

Tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo phận có ngày "Người Cha" thật ý nghĩa...

 

Nathanael Ðình Tuyến, Kontum ngày 01.5.2007

KỶ NIỆM 32 NĂM GIÁM MỤC VÀ MỪNG THƯỢNG THỌ BÁT TUẦN CŨA ĐỨC CHA GB. BÙI TUẦN

 

Sáng ngày 30.4.2007 tại Toà Giám mục Long Xuyên đã có một cuộc gặp mặt của hơn ba trăm linh mục, tu sĩ và giáo dân trong và ngoài giáo phận, để Mừng Thượng Thọ bát tuần, mừng 32 năm Giám mục của Đức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, nhân dịp này ngài cũng cho ra mắt bộ sách có tên là “Thao thức”.

 

Sau đây là trích phát biểu của ĐGM Giuse. Trần Xuân Tiếu khai mạc cuộc gặp gỡ :

 

Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay có mục đích tôn vinh và tỏ lòng biết ơn đối với một con người rất đặc biệt mà tất cả chúng ta đều kính trọng và quý mến. Đó là Đức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, năm nay mừng thượng thọ 80, ngài là vị tiền nhiệm của tôi, là Giám mục đã cai quản giáo phận Long Xuyên từ năm 1975 đến năm 2003.

 

Con người Giám mục của ngài hội tụ nhiều khuôn mặt làm nên một con người vĩ đại, đáng cho chúng ta phải khâm phục.

 

-         Ngài là một nhà giáo uyên bác và tận tuỵ, đã đem hết tâm huyết để giáo dục nhiều lớp trẻ mà nay có những người đã trở thành tổng giám mục, giám mục, linh mục hoặc những tín hữu, những công dân hữu ích trong xã hội.

 

-         Ngài là một nhà đạo đức có nền tảng nội tâm sâu sắc, có những suy tư có thể đánh động tâm hồn và giúp cho nhiều người biết hướng thượng, hướng về chân thiện mỹ.

 

-         Ngài là một nhà văn với những tư tưởng thâm sâu có sức hướng dẫn  dư luận, với lối hành văn nhẹ nhàng lôi cuốn không thể lẫn lộn với ai khác.

 

-         Ngài là nhà báo luôn đi sát với thời cuộc; cả đạo lẫn đời, quốc tế lẫn quốc nội, luôn bắt mọi người phải đặt vấn đề một cách hết sức nghiêm túc, và hết sức hiệu quả. Cả người trí thức lẫn bình dân, cả người vô thần lẫn hữu thần đều có thể đọc và chấp nhận.

 

-         Ngài là nhà tiên tri luôn đi trước thời đại, loan báo những thách đố, những khó khăn mà nhân loại, Hội thánh, hay Đất nước sẽ gặp phải, để biết cách đề phòng.

 

-         Ngài là nhà truyền giáo luôn ưu tư cho việc loan báo Tin Mừng Đức Kitô bằng tất cả phương tiện có trong tay, nhất là bằng việc viết báo và giảng dạy.

 

-         Vì cùng một lúc vừa là nhà giáo, nhà đạo đức, nhà văn, nhà báo, nhà tiên tri, nhà truyền giáo, nên ngài đã luôn “thao thức” với tương lai và sự sống còn của Đất Nước, của Hội Thánh, của nhân loại. Không phải chỉ thao thức với riêng mình, mà muốn chia sẻ những thao thức ấy cho tất cả mọi người. Nhớ đó hôm nay chúng ta có bộ sách “ thao thức” của ngài.

 

-         Ước mong rằng những thao thức của ĐGM GB. Bùi Tuần  sẽ được lan rộng ra cho tất cả những người thành tâm thiện chí, muốn giúp ích cho đời, cho đạo, cho cả Đất Nước và dân tộc Việt Nam.

 

Tin vu tổng hợp từ các bản tin

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

TỪ BÀN VIẾT CỦA MỘT CỤ GIÁ

Căn phòng nhỏ khoảng 20m2 chất đầy sách vở. Chủ nhân là một cụ già bát tuần, đi lại khó khăn, phải chống gậy. Nhưng đôi mắt vẫn sáng sau cặp kính trắng dầy cộm. Vẫn minh mẫn. Vẫn mạch lạc trình bày những ý nghĩ bất tận, bằng lối nói khúc chiết, về một đề tài thời sự đời sống bất chợt hiện lên trong trí não. Cái trí não hoạt động vô hình bên dưới mái tóc gội sương gió cuộc đời 80 năm, có công suất cực lớn, sẵn sàng đưa vào “ dây chuyền công nghệ” phân tích, suy ngẫm mọi biến cố, sự kiện, hiện tượng vấn đề trong đời sống nhân loại. đất nước duới ánh sáng của Tin Mừng.

 

Cụ già bát tuần, chủ chăn của căn phòng bé nhỏ đầy sách vở kia, chính là Đức cha Bùi Tuần, nguyên giám mục Long Xuyên.

 

Khách đến mừng thọ bát tuần đứng chặt căn phòng nhỏ. Vị giám mục về hưu tiếp mọi người bằng phong thái gần gũi, giản dị, chân thành, mà sao lại lịch lãm quá.

 

Sự lịch lãm và sang trọng của vị chủ chăn không cần phải cậy dựa, vay mượn, bất kỳ vật dụng trang trí, tiện nghi nào. Sự uyên bác và tấm lòng cởi mở đã là tố chất của lịch lãm và linh hồn của vẻ sang trọng. Khách tiếp nhận cái lịch, cái sang ấy một cách tự nhiên, đến nỗi thấy mình được đưa vào một khung cảnh tiếp đãi nho nhã và thanh cao, dù phải ngồi chen chúc trên chiếc nghế dài tiếp khách.

 

Có người băn khoăn Đức cha viết lách ở đâu. Vị giám mục đắc ý khoe chiếc bàn viết độc đáo của mình. Đó là một tấm gỗ giấu bên dưới một chiếc bàn nhỏ vốn được dùng đựng trà nước tiếp khách. Tấm gỗ có thể kéo ra kéo vào. Muốn viết thì kéo ra. Viết xong lại đẩy vào, giấu bên dưới mặt bàn. Thật tiện lợi, gọn ghẽ. Thì ra hằng hà sa số chữ nghĩa của biết bao bài viết đã tuôn trào, định hình từ chiếc bàn này.

 

Bỗng nhớ nhân vật văn sĩ Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Là nhà văn nhưng suốt một thời gian dài Hoàng không viết được chữ nào. Tại sao thế ? văn sĩ Hoàng trả lời vì không có bàn viết cho ra hồn. Ông ta đi tản cư, về sống ở nông thôn và không tìm đâu được một cái bàn vừa ý để viết lách. Thực ra, văn sĩ Hoàng không sáng tác được chẳng phải vì chưa có một cái bàn, mà vì thiếu chất liệu, cảm hứng,  và quan trọng nhất, theo tác giả Nam Cao, ông ta thiếu “đôi mắt” nhìn đời và nhìn người cho đúng.

 

Vị giám mục vừa vào tuổi bát tuần là một trong những người viết khoẻ. Từ căn phòng giản dị và từ chiếc bàn hiếm có kia, con người đã 10 năm bước vào lớp người xưa nay hiếm, hằng ngày vẫn miệt mài, bền bỉ tặng cho độc giả những món ăn tinh thần thuộc loại hàng hiếm.

 

Có lẽ cụ già đáng kính này đã có thể nhận nhiều ưu đãi nhưng cụ lại ưa sự giản dị.

 

Chính trong một không gian bình dị dơn giản, cụ có thể tiếp đón mọi người và mọi người đều có thể bước vào gặp gỡ, sẻ chia, đón nhận cùng khám phá và đồng điệu trong chân lý với cụ.

 

Có tiếng chuông điện thoại vang lên. Người ở đầu dây bên kia có thể là một tên tuổi lớn và cũng có thể là một người dân thường nào đó, có những tâm tình muốn chia sẻ, những suy nghĩ muốn giãi bày và những băn khoăn muốn tìm một tiếng nói phân minh, định hướng.

 

Cụ già đứng dậy, cằm gậy đỡ bước chân tuổi già cho vững, nhưng lòng cụ đã vững vàng từ lâu.

 

Bởi đã từ lâu, cụ hằng “tựa sát vào lòng Chúa Giêsu” ( Ga 13, 23)

 

Ở đó, nơi “sát lòng Chúa Giêsu”, mọi người tìm được sự vững vàng cho tinh thần và tâm thể.

 

Khổng Thành Ngọc

 

THÁI ĐỘ MỤC VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI TÍN HỮU DI DÂN

Chắc không có giáo xứ nào của giáo phận Vinh (gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình) là không có người đi làm ăn xa, rải rác trong nhiều tỉnh thành phía Nam, nhất là thành Phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương. Nhiều xứ đạo có số người đi làm ăn xa lên đến hàng trăm. Công việc họ làm rất đa dạng, từ công nhân xí nghiệp, xây dựng, bán hàng, làm việc nhà cho đến bán ve chai, bán vé số; một số khác làm việc theo thời vụ ở những vùng cao nguyên có cây công nghiệp (cà phê, trà) hoặc những vùng nông nghiệp cần nhân công hái tiêu, hái điều, nhổ sắn (củ mì), v. v. Nói chung, toàn là những việc tay chân đơn giản, không đòi hỏi chuyên môn, do đó lương bổng không cao. Đời sống vật chất và tinh thần của đám di dân này đặt ra nhiều vấn đề cho các vị mục tử. Ở đây, tôi chỉ xin mạo muội đưa ra vài gợi ý về thái độ mục vụ nên có đối với họ, dựa trên một ít sự kiện tôi nghe được hoặc quan sát thấy, dù đây không phải là phạm vi phục vụ chuyên trách của tôi trong tư cách một linh mục.

Vượt lên trên những tiêu cực không thể tránh mà các vị chủ chăn gặp thấy nơi những con chiên mình đi làm ăn xa, thiết tưởng các vị nên có thái độ chung là yêu mến, tin tưởng và thậm chí trân trọng họ.

Về vật chất, họ đóng góp nhiều cho gia đình và một phần cho xã hội. Hồi tết nguyên đán vừa qua, tôi đã tận mắt nhìn thấy ở vùng quê hương tôi ở Yên Thành, nhiều thôn xóm phát triển khá hẳn lên so với cách nay 4-5 năm nhờ những người lao động ở nước ngoài (không bao nhiêu) và những người di dân lao động trong nước, khá đông. Nhiều gia đình nghèo xưa nay không "ngóc đầu" dậy nổi nhưng nhờ có một hai đứa con làm ăn trong Nam, bây giờ cũng sắm được xe máy, ti-vi, bàn ghế và một vài tiện nghi khác trong nhà. Các linh mục là những người "chuyên lo" về đời sống tinh thần, lại không phải vất vả bận tâm về cuộc sống vật chất thường có khuynh hướng đánh giá thấp các tiến bộ của con chiên về cái ăn, cái mặc, nhà ở và sự thụ hưởng vật chất. Thậm chí, có vị tìm cách ngăn cản hoặc gây khó dễ cho con chiên bỏ xứ sở đi làm ăn xa, như thể là những người này ham hố của cải, đặt vật chất cao hơn "sự đạo". Thiết tưởng đời sống vật chất là một nhu cầu tự nhiên (và quyền lợi) chính đáng của mọi người dân, tuy không trực tiếp thuộc trách nhiệm của người chủ chăn nhưng không thể không có liên quan. Giáo Hội nên đánh giá đúng mức những ai góp phần vào sự thịnh vượng xã hội và nâng cao đời sống vật chất của gia đình mình. Có thực mới vực được đạo. Cũng nên hiểu rằng đa số họ cũng phải vất vả khó nhọc và hy sinh lắm khi phải xa nhà, xa cha mẹ, vợ con để lao động nơi đất khách quê người.

Ngoài ra, người chủ chăn cũng nên chú ý tới vài nét tâm lý xã hội thông thường của người thôn quê lên thành phố để hiểu họ hơn. Ở thôn quê, người ta sống như trong một gia đình lớn, người ta biết nhau từ nhỏ, đi đâu cũng là người quen, người thân cả; người ta sống trong một áp lực xã hội bao trùm, làm gì cũng khó tránh khỏi dư luận nhận xét, phê bình, đồng tình hay lên án. Lên thành phố, người thôn quê cảm thấy như được tự do, được "giải phóng", được "là mình" hơn, có thể làm điều mình muốn mà không sợ bị "dòm ngó". Cơ may là họ có thể rèn luyện sự tự do, tự lập, sống các chọn lựa của mình cách ý thức hơn, thay vì sống theo áp lực của gia đình, xã hội; nhưng thực tế vì đại đa số đã không được huấn luyện để sống trưởng thành, tự lập nên đây thường là nguy cơ lớn cho những thanh niên thiếu nữ xa nhà và sống lẻ loi lạm dụng tự do để sống buông thả. Cũng may là đa số người lao động nhập cư vẫn sống thành nhóm với nhau, và thường được các cha xứ, các tu sĩ và giáo dân nơi họ tạm trú quan tâm giúp đỡ, nhất là về mặt tinh thần. Hôm nay khi tôi ngồi viết bài này, ngày chủ nhật 29 tháng 4, trong nhà thờ chúng tôi ở quận 9 Tp HCM, có hai thánh lễ, một lễ hôn phối cho một cặp công nhân nhập cư và một lễ cho nhóm công nhân đồng hương mừng bổn mạng là thanh Giuse-Thợ. Sau lễ, nhóm này tổ chức cắm trại trong vườn tu viện chúng tôi.

Ở trong những môi trường sống mới, người di dân thường xem xét lại các quan niệm và lối sống mình xưa nay ở quê nhà. Sự "đụng độ" về văn hoá là khó tránh khỏi, tuy mạnh yếu hay nhiều ít tùy người, tùy lứa tuổi. Nếu thiếu chín chắn, họ có thể hoặc là tự vệ, bảo thủ mọi thứ của làng xóm mình, không học được gì hay từ môi trường văn hoá xã hội mới hoặc ngược lại, chỉ biết chạy theo các mặt bề ngoài thậm chí tiêu cực nhưng "hấp dẫn" của lối sống đô thị. Người ta đã từng nhận xét rằng thanh niên vào Nam hay bắt chước tật xấu phổ biến là "nhậu nhẹt", nhậu lai rai cuối tuần và những dịp lễ nghỉ. Về mặt tôn giáo, sự so sánh cũng không thể tránh khỏi. Các vị chủ chăn không nên vội vàng coi là tiêu cực mọi ý kiến của con chiên đi làm ăn ở xa về "chê" (dĩ nhiên là không trực tiếp và công khai với cha xứ) lễ nghi phụng vụ ở xứ nhà không sống động hoặc quá dài, hoặc nhận xét về các bài giảng của cha xứ là "thế này thế kia", phê phán cách thi hành quyền bính ở quê nhà là "cứng cỏi" hay mối quan hệ xa cách giữa linh mục và giáo dân, v. v. Việc so sánh và nhận định như thế cũng chỉ là chuyện "tự nhiên" thôi, đó là chưa nói, nếu chúng ta biết nghe thì nó còn có thể giúp ta nhìn lại mình và cách phục vụ của mình...

Chắc thế nào cũng có những người "nhập" về trong xứ, trong họ đạo những điều thực sự là xấu, các vị chủ chăn phải bài bác một cách mạnh mẽ nhưng bình tĩnh với lời lẽ giải thích thuyết phục thay vì chỉ bực tức la mắng trên toà giảng... Những người đó, dù sao vẫn là con chiên trong bầy; nếu họ có là chiên bệnh (chiên ghẻ!) đi nữa thì người linh mục vẫn phải yêu mến và chăm chữa trị theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành.

Dù có người làm ăn xa nhà hư hỏng (làm sao tránh khỏi?), nhưng tuyệt đại đa số họ vẫn tốt, vẫn đáng cho các chủ chăn tin tưởng và quan tâm. Chính sự tin tưởng và mối quan tâm đó sẽ nâng đỡ họ trong cuộc sống vật chất và tinh thần khó khăn nơi tha phương, và động viên họ hữu hiệu hơn trước các cám dỗ và cạm bẫy đầy dẫy trong cuộc sống phức tạp. Vừa qua, có một cha xứ hạt Thuận Nghĩa nhân có việc vào Tp Hồ Chí Minh, đã gắng thu xếp để gặp gỡ, chuyện trò với hai nhóm công nhân gốc vùng Quỳnh Lưu, một nhóm khoảng 60, nhóm kia khoảng 160 người. Công nhân rất phấn khởi thấy vị chủ chăn "quê hương" chăm sóc mình như thế.

Phong trào người thôn quê kéo nhau đi làm ăn trong các đô thị là một hiện tượng tự nhiên, bình thuờng khi một xã hội bắt đầu hiện đại hoá, công nghiệp hoá. Nó đặt ra cho người mục tử nhiều vấn đề và nhiều mối ưu tư mục vụ. Tự nhiên ai cũng muốn một giáo xứ ổn định, một nề nếp sống đạo thuần nhất, đơn giản, ít vấn đề, dễ kiểm soát. Nay phong trào di dân nội địa (bền vững hay thời vụ) có nguy cơ phá vở hay ít nhất làm suy yếu nếp sống truyền thống của các giáo xứ, nên các vị chủ chăn thường có phản ứng ít nhiều tiêu cực, đó là chuyện dễ hiểu. Nhưng theo tôi biết, sau một số phản ứng như thế lúc ban đầu, các ngài dần dần đã thay đổi thái độ và cách nhìn đối với con chiên rời quê đi làm ăn xa. Như tôi mạo muội gợi ý trên đây, Giáo Hội ta không nên coi phong trào di dân đang diễn ra như một chuyện "chẳng đặng đừng phải chịu đựng" mà như một dịp, một lời mời gọi để đổi mới cách giáo dục đức tin và tổ chức đời sống đạo cho phù hợp hơn với một xã hội đang nổ lực tối đa để trở thành văn minh, hiện đại, tiên tiến. Mà kinh nghiệm cho thấy, văn minh, hiện đại thường đồng nghĩa với duy vật chất, duy trần tục, suy thoái đạo đức và dửng dưng tôn giáo.

29. 4. 2007

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

MỘT KIẾP THAO THỨC

Con người là hữu thể khát khao hạnh phúc.

Lịch sử nhân loại có thể cho ta khẳng định điều này. Một trong những nét trỗi vượt của con người so với các loài hữu hình khác đó là không hài lòng với cái hiện tại. Nhân loại từ cổ chí kim luôn không ngừng kiếm tìm một cái gì hơn nữa. Những thiện hảo đời này chưa thể thỏa mãn khát vọng vô biên của con người. Cuộc sống hôm nay chưa thể làm thỏa mãn mộng ước vĩnh tồn của con người. Thế là đã đang và mãi còn đó những nỗ lực muốn kéo dài sự sống, muốn trường sinh bất tử. Và tận sâu xa cõi lòng, con người muốn đạt tới hạnh phúc đích thật.

Đời người là một kiếp băn khoăn. Cuộc đời là một chuổi thao thức không ngừng. Băn khoăn hay thao thức theo Từ điển Tiếng Việt, có nội hàm gần tương tự nhau. Băn khoăn là “không yên lòng vì đang có những điều bắt phải nghĩ ngợi”. Thao thức là “ở trạng thái không ngủ được vì có điều phải suy nghĩ, không yên”. ( Từ Điển Tiếng Việt- Nxb Khoa Học Xã Hội -1994 ). Các từ “phải nghĩ ngợi” hay “phải suy nghĩ” trong khái niệm băn khoăn, thao thức, nói lên lên cái lẽ đương nhiên hay cái tính tất yếu, nghĩa là điều phải có khi nói đến con người. Và ngược lại nếu thiếu chúng thì có thể nói là chưa phải là con người.

Thánh Âugustinô là một ví dụ điển hình: “ Lạy Chúa… lòng chúng con vẫn khắc khoải bao lâu chưa được nghỉ yên trong Chúa” ( Tự Thuật 1.1,1 ). Trong niềm tin Kitô giáo thì chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là căn nguyên và cứu cánh của mọi vật mọi loài mới là hạnh phúc đích thật của con người. “ Tận đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm.” ( GLCG chung số 27 ).

Mở đầu sách Giáo Lý Công Giáo, Hội Thánh lấy lời Chúa Giêsu, chính xác hơn là những lời cầu nguyện của Người trước khi Người chịu tử nạn, để khẳng định một chân lý liên quan đến hạnh phúc của con người. “ Lạy Cha…sự sống đời đời chính là ( họ ) nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” ( Ga 17,3 ).

Thánh Phaolô tông đồ nói với Timôtê rằng : “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. ( 1 Tim 2,3-4 ). Tuy nhiên một thực tiển với chúng ta, loài thọ tạo trong kiếp nhân sinh này thì Thiên Chúa vẫn mãi là Đấng bất khả thấu đạt ( tôi dùng từ “thấu đạt” nghĩa là nắm được trọn vẹn để phân biệt với lập trường bất khả tri ). Vì thế hạnh phúc đích thật sẽ mãi ngoài tầm tay của con người mọi thời.

Đức Kitô đã đến thế gian.

Một trong những sứ mạng chính yếu của Người là làm chứng cho chân lý ( x. Ga 19,37 ). Người đã minh nhiên khẳng định mình chính là hiện thân của Chúa Cha. Người chính là đường, là sự thật và là sự sống. Ai thấy Người là thấy Thiên Chúa. Ai tiếp nhận Người là tiếp nhận chân lý. Ai tin theo Người thì sẽ có hạnh phúc, có sự sống đời đời. Là Kitô hữu, chúng ta tin nhận rằng không có con đường hạnh phúc thật nào mà không qua Chúa Kitô. “ Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14,6 ).

Để đến được với Đấng là Đường, là Sự thật, là Sự sống và cũng là hiện thân của Tình yêu Thiên Chúa chắc hẳn không phải một sớm một chiều. Và cũng chắc chắn không kém là chẳng một ai đang tại thế có thể hiểu biết được Người cách tường tận. Hai từ hiểu biết ở đây không dừng lại ở khía cạnh tri thức mà còn mang tính kinh thánh là sự kết hợp sâu xa và trọn vẹn như sự kết hợp trong đời sống phu phụ.

Đạo là gì?

Một khái niệm mà với ngôn ngữ loài người dường như không thể lột tả đủ đầy. “Đạo khả đạo phi thường đạo”. Chúng ta không chỉ quen mà còn như đồng thuận với Lão Tử trong câu khẳng định này. Tuy nhiên dù bất khả thấu đạt, con người vẫn cố công diễn tả Đạo một cách nào đó theo khả năng suy tư hay luận lý của mình. Đạo là đường. Nói đến con đường ta liên tưởng đến hướng đi, đến người lữ hành. Từ đó ta có thể tạm hiểu với nhau Đạo là một hướng sống, một lối sống của con người được lựa chọn dựa trên một niềm tin, một sự xác tín nào đó. Và để biểu hiện sự lựa chọn một hướng sống dựa trên niềm tin của mình thì con người đã hình thành nên tín ngưỡng, tôn giáo.

Như thế tôn giáo là một sự biểu hiện của Đạo. Đạo đưa đến hạnh phúc thật thì những hình thức tín ngưỡng hay các tôn giáo là những cách thế biểu hiện việc tìm kiếm hạnh phúc của con người. Với tập thể này là vào Niết bàn, với tập thể kia là lên Thiên Đàng, là trở về với Đạo, là hòa với Đại Ngã, là hiệp một với Đại Linh Quang... Tuy nhiên ta đừng quên cái là sự biểu hiện và điều được biểu hiện không bao giờ đồng nhất với nhau. Tôn giáo không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Nói như Cha Thiện Cẩm thường trích lời của giới nhà Phật : Như ngón tay chỉ mặt trăng thì tôn giáo chỉ là ngón tay. Mặt trăng mới là Đạo.

Chân lý là gì?

Chúa Giêsu không trả lời cho Philatô câu hỏi này. Người chỉ khẳng định mình đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Ai hâm mộ chân lý thì hãy nghe theo lời Người. Thế nhưng truớc đó Người đã minh nhiên khẳng định mình là Chân lý. Các triết gia cố giải thích sự thật hay chân lý là sự tương đồng, phù hợp giữa trí khôn và thực tại. Người ta phân biệt ba loại chân lý. Chân lý luận lý là sự nhận thức của lý trí phù hợp hay tương ứng với sự vật hiện tượng khách quan. Ví dụ khi ta nghĩ rằng vạn vật hấp dẫn nhau và suy nghĩ ấy phù hợp với thực tiển nên đó là chân lý.

Chân lý siêu hình hay hữu thể là sự hiện hữu của sự vật hiện tượng khách quan phù hợp với trí khôn. Chẳng hạn một vật nào đó được làm ra đúng như ý tưởng của người làm ra nó thì đó là sự thật. Hoặc sự hiện hữu của một sự vật hay hiện tượng nào đó mà có thể hiểu được lý do thì chúng là thật với người biết chúng. Loại thứ ba là chân lý luân lý. Đây là sự tương hợp tương đồng giữa lời nói, việc làm với tư tưởng, ý nghĩ của ta. Nếu ngược lại là sự dối trá. ( x. Pocket Catholic Dictionary – J.A.Hardon ).

Trong đời sống thường nhật hay trong các ngành khoa học, để biểu hiện chân lý thì người ta có các nguyên lý, định lý, quy tắc, định đề…Cũng để diễn tả chân lý thì mỗi trường phải triết học lại có mỗi chiều hướng khác nhau vì thế mà có chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ như duy lý, duy nghiệm, duy tâm, duy vật, duy linh, duy thực… Trong tôn giáo thì có giáo lý, tín điều…. Dù là định đề hay quy tắc, là tín điều hay giáo lý…tất thảy đều là những cách thế biểu hiện chân lý. Chúng có thể trình bày chân lý một cách nào đó nhưng chúng không thể nào là chính chân lý.

Sự sống là gì?

Người ta dễ dàng hình dung động thái “sống” và diễn tả nó bằng khái niệm. Có người quan niệm sống là động. Các nhà khoa học thì cho rằng sống là một quá trình trao đổi các chất hữu cơ. Theo Kitô giáo thì con người còn sống khi linh hồn còn kết hợp với thân xác. Khi linh hồn lìa khỏi xác thì là hết sống. Còn sự sống là gì, chúng ta khó tìm được định nghĩa rõ ràng. “Sự sống ( la vie, the life ) thường không được định nghĩa cho bằng cảm nghiệm, nhận thức” ( Điển Ngữ Đức Tin – Lm. Hồng Phúc ).

Người xưa cảm nghiệm sự sống qua hơi thở. Người Do Thái quan niệm sự sống ở nơi máu huyết. Thiên Chúa là chủ sự sống nên không một ai được phép đụng chạm đến máu huyết vì như thế là xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngay cả đến thời Hội Thánh sơ khai, các Tông đồ còn giữ lại quan niệm này khi cấm các tín hữu không được phép ăn thịt thú chết ngạt vì máu huyết còn ở trong thịt. ( x. Cvtđ 15,29 ).

Mặc dù không thể đưa ra một khái niệm chính xác rõ ràng nhưng chúng ta cũng có thể hình dung sự sống chính là điều cốt yếu làm cho con người, các vật thể được linh động, tăng trưởng và tồn tại. Con người xưa nay, đặc biệt người Đông phương thường quan niệm sự sống như là cái hồn bên trong. Sinh hồn trong loài sinh vật, giác hồn trong loài động vật và linh hồn trong loài người. Một số tôn giáo còn cho rằng loài khoáng vật cũng có hồn khi xem chúng là một trong những kiếp của hiện hữu. Nhiều triết gia thì tổng quát hóa sự sống của các hiện hữu bằng hai từ “mô thức” trong cặp phạm trù chất thể - mô thức. Tuy nhiên dù là mô thức, là máu huyết, là hơi thở, là hồn… thì chũng cũng chỉ là những biểu hiện, những hình thức diễn tả. Chúng không bao giờ có thể đồng nhất với sự sống.

Tình yêu là gì?

Một câu thơ được lặp đi lặp lại trong chuyện phim Thần Điêu Đại Hiệp : “Hỏi thế gian tình ái là gì – Mà đôi lứa thề nguyền sống chết”. Các thi nhân kim cổ cũng thường tự hỏi : Chữ tình là chữ chi chi? Để trả lời cho câu hỏi này thì biết bao nhiêu giấy mực mà vẫn khôn xiết. Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chúng ta vừa đánh dấu mở đầu triều đại Giáo Hoàng của Ngài bằng Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu ( Deus Caritas est ). Ngài đã dùng hai từ Eros và Agape để quảng diẻn tình yêu Thiên Chúa. Đó là một quá trình vừa trao ban vừa đón nhận. Và chính khi đón nhận là lúc trao ban.

Trong thực tế người ta thường nói nhiều về động thái yêu, nghĩa là từ yêu xét như là một động từ. Yêu là chết trong lòng một ít. Yêu là trao ban những gì tốt nhất cho người mình yêu, một sự trao ban vô điều kiện. Yêu là đón nhận một cách quảng đại, không một giả thiết hay tiền đề… Còn tình yêu xét như là một thực thể ( L’amour, the love ) thì dường như thật khó diễn tả. Thánh Gioan Tông Đồ đã bạo dạn nói rằng : “ Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội thay cho chúng ta” ( 1 Ga 4,10 ). Khi nói tình yêu cốt ở điều này thì Thánh Gioan cũng chỉ diễn tả động thái chính yếu của tình yêu, tức là nói đến chữ yêu.

Cho dù khó diễn tả nhưng đã là người, không ai lại không cảm nhận sự hiện hữu của tình yêu. Tình yêu là có đó. Nó mạnh mẽ hơn cả thần chết. Nó tác động lên ta một cách khó cưỡng lại. Nó dẫn ta đến một giới hạn mà lý trí phải chào thua. Con tim có lý lẽ của nó. Cám ơn Thánh Gioan Tông Đồ khi Ngài khẳng định :“Thiên Chúa là tình yêu” ( 1 Ga 4,8 ). Câu khẳng định của Thánh Gioan cùng với lời của Hội Thánh giúp ta hiểu một chút nào đó về tình yêu. Thiên Chúa là một cộng đoàn. Nói đến tình yêu là nói đến các mối tương quan. Tình yêu chính là sự sống, là sức mạnh chuyển thông liên lỉ giữa Chúa Cha và Chúa Con. Và nguồn sức mạnh và sự sống giữa hai Ngôi ấy chính là Chúa Thánh Thần.

Với sự mạc khải này thì dưới cái nhìn Kitô giáo chúng ta có thể đưa ra khái niệm : tình yêu là một năng lực mạnh mẽ, tất yếu giữa các mối tương quan. Trong tương quan cha-con; mẹ-con thì năng lực ấy là tình phụ tử, mẫu tử. Trong tương giữa vợ chồng thì năng lực ấy là tình phu phụ. Trong tương quan giữa công dân với quốc gia dân tộc thì có tình yêu quê hương, tình yêu đồng bào…

Tuy nhiên nếu hiểu tình yêu là năng lực mạnh mẽ và tất yếu giữa các mối tương quan ấy thì chúng ta cũng chỉ cảm nhận kể cả chân nhận nó trong hiện thực mà không thể diễn tả hết được. Và có khi càng cố diễn tả thì càng đi xa với thực tại. Cha Antony de Mello có kể câu chuyện như sau : “ Một người đang dọn luận án tiến sĩ triết học, ngành tâm lý học, chuyên đề về tình yêu hôn nhân. Một ngày người vợ bổng nhận ra sự tinh tế và sâu sắc của chuyên đề anh nghiên cứu khi chị hỏi anh :

- Vì lý do gì anh lại yêu em đến thế?

Lập tức anh ta hỏi lại :

- Khi em nói “đến thế” là em muốn nói gì. Em muốn nói về cường độ, về sự sâu xa, về mức độ, về trương độ, về phẩm tính hay về khối lượng?

- Không ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp của hoa nếu ngồi phân tích từng cánh hoa hay vặt từng nhụy hoa ra mà nghiên cứu. Một kiểu nói như Thiền sư Suzuki : “ Hoa thì từ cây mà ra, nhưng nếu chẻ cây ra thì tìm đâu ra hoa nhỉ?”

Đạo hay đường, chân lý hay sự thật, sự sống và tình yêu là những thực tại mà con người mọi thời không ngừng tìm cách đạt đến. Và có thể nói là chẳng một ai dám tự hào mình đã đắc đạo, đã nắm được chân lý, đã giữ được sự sống hay đã có được tình yêu cách trọn hảo, đủ đầy.

Nào chúng ta thử xem các vị đã cùng ăn uống, cùng sống với Đức Kitô, đã từng chiêm ngắm vinh quang của Người trên núi Tabôrê, đã từng thông phần với Người trong cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Không ai hơn nhóm Mười Hai, có thể nói các Ngài là những người có điều kiện thuận lợi nhất để hiểu và biết Đấng là Đường là Sự Thật là Sự Sống và là Tình Yêu.

Thế nhưng thực tế, còn nhiều điều mà các Ngài vẫn chưa hiểu về Thầy Chí Thánh cũng như lời của Người. Dù có khẳng khái tuyên xưng : Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” ( Mt 16,16 ), thì Phêrô chỉ được Chúa Cha mạc khải trong thoáng chốc. Liền sau đó Ngài lại trở về với suy nghĩ kiểu trần thế đầy u mê của minh. “ Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà, anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư…” ( Ga 14,9…). “ Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” ( Ga 16,12-13 ).

Thần khí sự thật đã được ban cách đặc biệt trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thế nhưng thánh Gioan khẳng định : “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào chúng ta sẽ thấy Người như vậy” ( 1 Ga 3,2 ). Vị tông đồ dân ngoại, người đã được đưa lên tầng trời thứ ba để chiêm ngưỡng những sự cao sâu mầu nhiệm cũng đã thú nhận : “ Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” ( 1 Cor 13,12 ).

Là những người tiếp nối truyền thống các Tông đồ, chúng ta hẳn không hơn gì các Ngài. Có thể nói rằng sau hơn 40 năm miệt mài tìm một hướng đi thì linh mục Nguyễn Đình Thi lại thấm thía một hiện thực là “càng đi càng thấy đường” như luận đề của luận án triết học của ngài năm xưa. ( Tuần Báo Công giáo và Dân tộc số 1601 trang 8 ). Càng đi càng thấy đường ở phía trước ta. Nghĩa là quá trình đến với Đạo với Chân lý, với Sự Sống, với Tình Yêu mãi luôn còn đó với bất cứ ai đang trong kiếp nhân sinh này. Đây là một hiện thực khách quan. Chúng ta vẫn mãi còn băn khoăn hay thao thức cho đến ngày được nghỉ yên trong Chúa.

Hôm nay, nhân mừng kỷ niệm 32 năm ngày thụ phong Giám Mục của Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, cũng là dịp mừng Đức Cha qua cái ngưỡng trên cả “cổ lai hy” là 80 năm hưởng thọ, xin được chia sẻ chủ đề này, cách riêng nhân dịp anh chị em Tòa Soạn Báo Công giáo và Dân Tộc có nhã ý thu tập những trăn trở suy tư của Đức Cha vào các tuyển tập với tựa đề “Thao Thức”. Đã là thao thức nghĩa là vẫn đang không ngừng tìm kiếm. Đang không ngừng kiếm tìm nghĩa là mình vẫn chưa gặp, vẫn chưa thấy cách toàn diện hay đủ đầy. Người còn biết thao thức là người đang biết khiêm tốn. Khiêm tốn nhìn nhận mình chưa đạt chưa thấu. Khiêm tốn nhìn nhận mình có thể đã lầm hay đã sai cách này hay cách khác, khi này hay khi khác.

Có thể nói : lầm và sai là phận con người. Trên Thập giá Chúa Giê su đã xin Chúa Cha tha thứ cho nhiều người vì sự sai lầm của họ. Và nay ngự bên hữu Chúa Cha Người vẫn tiếp tục cầu bàu cho chúng ta về những sai lầm mà ta đã đang và sẽ vương mắc. Tuy nhiên vấn đề không hệ tại ở chỗ nhận biết mình có thể lầm hay có thể sai, nhưng là biết nỗ lực đi đi mãi. Đây chính là nôi hàm của lời mời gọi của Chúa Giêsu : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” ( Mt 5,48 ). Các nhà chú giải Tin Mừng đều nhất trí với nhau rằng sự hoàn thiện ở đây không phải là ở mức độ mà là ở hướng đi. Không phải người này sống ở mức này hay mức kia là hoàn thiện. Vì chẳng có một mức độ thánh thiện nào trong cuộc sống của con người có thể sánh ví với sự hoàn thiện của Thiên Chúa. Nên hoàn thiên là quá trình đi mãi, vươn lên mãi đến cùng Đạo, cùng Chân lý, Sự Sống và Tình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo chúng ta đó chính là quá trình kiếm tìm và kết hiệp với Thiên Chúa.

Với những dòng chia sẻ trên đây, xin được rút ra những hệ luận như là những nhận định cho dù có thể là chủ quan hay phiếm diện :

Từ ba nhận định trên, xin được mạo muội đề xuất một vài kiến nghị thô thiển :

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

VÂNG THEO THÁNH Ý CHÚA

 “Ai làm theo ý Cha Ta ở trên trời, thì kẻ ấy là anh em, chị em và là Mẹ Ta vậy”. Đó là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mối tương quan giữa Ngài và các đồ đệ trước sự hiện diện của dân chúng, và nhất là Ngài muốn ám chỉ về Mẹ Maria. Mới đọc qua bài tường thuật, chúng ta có thể bỡ ngỡ đôi chút về thái độ của Chúa Giêsu đối với Mẹ Maria. Thử hỏi một thái độ như vậy có gì bất kính hay không? Thưa, “chắc chắn là không”. Nhưng những người hiện diện lúc đó hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu muốn nhân cơ hội này mà mạc khải mối tương quan giữa Ngài và các đồ đệ, và chính Mẹ Maria cũng không cho thái độ của Chúa Giêsu là bất kính.

 

Hơn ai hết, Mẹ hiểu rõ Chúa Giêsu muốn nói gì. Mẹ hiểu rõ Chúa Giêsu muốn mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Mẹ và Chúa. Ngoài mối tương quan tự nhiên mẹ con, mối tương quan đó Mẹ đã sống ngay từ khởi đầu mầu nhiệm Nhập Thể với biến cố “Truyền tin”. Mẹ đã lắng nghe và thưa “Xin vâng”, chấp nhận thi hành thánh ý Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria là đồ đệ tuyệt hảo của Chúa hơn mọi đồ đệ, vì Mẹ đã sống đến mức tuyệt hảo theo thánh ý Chúa Cha: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”; “Phúc cho Bà vì Bà đã tin vào lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện”; “Đây là Mẹ Ta, là anh em Ta, vì bất cứ ai làm theo thánh ý Cha Ta ở trên trời thì người đó là Mẹ Ta là anh em Ta vậy”.

 

 Thánh Luca kể thêm một chi tiết như sau: “Mẹ Ta và anh em Ta là tất cả những ai nghe lời Thiên Chúa và thực hiện lời ấy”. Phải, Mẹ Maria đã luôn luôn lắng nghe Lời Chúa và thực hiện lời ấy một cách tốt đẹp nhất. mẹ là mẫu gương cho mọi đồ đệ của Chúa Giêsu qua mọi thời đại.

 

 Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã nêu gương cho chúng con là “sống lắng nghe Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày”. Xin Mẹ giúp mỗi người chúng con biết yêu mến Lời Chúa và mỗi ngày sống thực hiện Lời Chúa một cách tốt đẹp hơn. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ thưa “Xin vâng”theo thánh ý Chúa trong mọi giây phút của cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

Theo Radio Veritas

Giải đáp thắc mắc

ƠN GỌI VÀ DÒNG TU

Kính gửi Cha

Con cảm thấy minh có hướng theo ơn gọi của Chúa và con cũng mong mình sẽ trở thành người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo. Nhưng con gặp trở ngại là chưa tìm ra được con đường để theo Chúa. Con chưa biết nhiều về các hình thức tu cũng như các dòng tu ở Việt nam hiện nay

Xin Cha hãy cho con một số thông tin về hình thức các dòng tu cũng như thủ tục để gia nhập. Xin chân thành cảm ơn Cha.

Giải đáp

Bạn Thịnh thân mến,

Tôi rất vui mừng khi thấy bạn có ý muốn dâng hiến đời mình trong đời sống tu trì. Tuy nhiên để có thể nhận ra ơn gọi của mình trong một dòng tu cho phù hợp cũng cần được sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm. Bạn có thể tìm gặp một Linh mục hoặc một tu sĩ mà bạn tin cậy để họ giúp bạn về hướng đi này thì tốt . Nhưng nếu bạn muốn có những người có chuyên môn về hướng dẫn ơn gọi thì bạn cũng có thể tìm đến các nhà Dòng có mặt trong địa bàn bạn đang sống, bạn sẽ được hướng dẫn để tìm hiểu. Nếu bạn đang ở TPHCM, để có được địa chỉ các Dòng tu, bạn có thể đến nhà sách Công Giáo đối diện với nhà thờ Đức Bà mua quyển địa chỉ các Giáo Xứ, trong đó bạn sẽ tìm thấy địa chỉ các Dòng tu trong địa bàn TPHCM.

Nếu bạn muốn tìm hiểu Dòng Chúa Cứu Thế xin mời bạn đến:

Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 38 Kỳ Đồng, quận 3, TPHCM.

Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội

Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, 142 Nguyễn Huệ, Huế

Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang

Nhân tiện, tôi cũng mời bạn đọc bài trả lời thắc mắc của một người muốn tìm hiểu về ơn gọi. Hy vọng nó sẽ giúp ích cho bạn.

Chúc bạn được nhiều ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để bạn nhận ra ý Chúa trên đời mình.

 

ƠN GỌI TU TRÌ

Thưa cha, xin cha cho biết làm cách nào để nhận ra một người có ơn gọi đời sống tu trì.

Trả lời

Để trả lời đầy đủ cho câu hỏi trên lại cần đến khá nhiều giấy mực và cả những kinh nghiệm của những nhà đào tạo trong các Dòng tu. Tuy nhiên tôi cho rằng thắc mắc của bạn không đòi hỏi nhiều đến thế. Điều bạn ưu tư của bạn cũng trùng hợp với những nỗi băn khoăn của các bậc làm cha làm mẹ khi tự hỏi không biết con mình có ơn gọi đi tu hay không nhất là khi thấy con cái có vẻ ham thích việc đạo đức, ưa bắt chước các cha hay các bà sơ...

Tôi cũng không muốn bàn sâu về đời tu dưới cái nhìn Thần Học hay Giáo luật mà chỉ muốn trao đổi với bạn về đời tu theo cách nhìn thông thường không phân biệt tu dòng hay tu làm linh mục.

Ơn gọi tu trì dù ở dưới góc độ nào cũng bao gồm hai yếu tố : lời mời gọi từ phía Thiên Chúa và sự đáp trả từ phía con người.

Làm sao biết được Thiên Chúa kêu gọi mình  để có thể đáp lại tiếng gọi ấy ?

Chỉ trừ những ơn gọi đặc biệt nghe được tiếng Chúa trong những hoàn cảnh khác thường, còn thông thường thì tiếng Chúa gọi có thể đến từ những thôi thúc nội tâm làm cho ứng sinh cảm thấy ước muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Ơn gọi có thể đến qua các biến cố như một dịp tĩnh tâm, một lần dự lễ phong chức, một chuyến thăm viếng vùng truyền giáo...Ơn gọi có thể đến từ việc tiếp xúc những vị lãnh đạo trong Hội Thánh hoặc tiếp xúc với một cộng đoàn tu hay một vi tu sĩ linh mục mà mình cảm thấy yêu mến và ngưỡng mộ. Có thể ơn gọi được triển nở trong một môi trường mà giá tri đời tu luôn đuợc cổ võ và khích lệ. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp ơn gọi nẩy sinh từ những hoàn cảnh khó khăn hay bất lợi cho đời sống đạo. Thậm chí ơn gọi có thể manh nha từ một ước muốn vụ lợi nữa.

Tất cả những tình huống nêu trên chỉ muốn trình bầy tiếng gọi của Chúa có thể đến từ nhiều bối cảnh khác nhau và những thôi thúc ban đầu ấy mới chỉ là những dấu hiệu sơ khởi còn cần được củng cố hay thanh luyện bằng những hướng dẫn cụ thể trong  suốt quá trình huấn luyện và đào tạo.

Để có thể đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, người được kêu gọi cũng cần có một mức độ trưởng thành và được hoàn toàn tự do cũng như thực sự ý thức về quyết định dấn thân của mình. Vì thế mà ứng sinh cũng phải đạt đến một độ tuổi mà sự phát triển về tâm lý cũng như tinh thần tương ứng với đòi hỏi của ơn gọi.

Tuỳ theo đặc sủng và mục đích của các dòng tu hay điều kiện của các chủng viện mà những tiêu chuẩn có sự khác bịêt. Nhìn chung, ta có thể nêu ra những điều kiện cơ bản như sau :

– Có ý hướng ngay lành chứ không bị thúc đẩy bởi những động cơ vụ lợi, không vì áp lực bởi gia đình hay những nguời xung quanh, không bị tác động bởi môi trường xã hội khiến cho ý hướng tu trì bị vẩn đục

– Có một sức khoẻ ổn định để đảm nhận sứ mạng và đòi hỏi của đời tu.

– Có sự quân bình về tâm lý để có thể vượt qua những thách đố của đời tu,để có thể hoà nhập với cuộc sống đời thường, để có những mối tương giao tốt đẹp với người khác về mặt tình cảm cũng như hoạt động.

– Có khả năng trí tuệ thích hợp để có thể đảm trách những công tác được trao phó, và có thể tự trang bị cho mình môt vốn kiến thức đầy đủ làm nền tảng vững chắc cho đời sống đức tin theo kịp nhịp tiến bộ của xã hội.

– Có khả năng sống đời tu một cách tích cực nghĩa là tìm thấy niềm vui, sự bình an, hăng say chứ không chỉ là một gánh nặng phải cố mà mang lấy cho xong.

– Có một đời sống luân lý trong sáng và đời sống thiêng liêng tiến triển cách vững chắc. Đời sống ấy phải có huớng đi tới chứ không chi là những hăng hái nhất thời và nhạt dần theo năm tháng.

Là những người có trách nhiệm hay có những ưu tư về ơn gọi khi nhận thấy có những dấu hiệu sơ khởi, tích cực ta nên khuyến khích, nâng đỡ những mầm non ơn gọi. Chính đương sự cũng cần phải cầu nguyện để nhận ra tiếng gọi của Chúa. Cần tìm đến với những người khôn ngoan, đạo đức và hiểu biết về đời tu để được hướng dẫn.  Điều quan trong vẫn là thực hiện ý Chúa trên đời mình chứ không phải là tìm cách đeo đuổi ý định của mình hoặc cố gắng làm vui lòng người dù đó là cha mẹ hay người thân. Nếu Chúa đã mời gọi Ngài cũng sẽ ban cho những ơn huệ và năng lực để đáp trả.

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

MẮT NHẮM, MẮT MỞ

Chúng ta bắt đầu lễ cứo hôm nay, bằng một câu chuyện tình lãng mạn.

Calcio và Maria quen nhau đã lâu. Một đôi trai tài gái sắc. Được phép của cha mẹ, hai người đẫ làm nghi lễ đính hôn với nhau.

Gia đình Calcio làm nghề kinh doanh địa ốc. Còn cha của Maria là một thẩm phán của thành phố Milan, nước Ý. Bọn mafia ghét đắng vị thẩm phán này. Bọn chúng đã lên một kế hoạch, để hãm hại gia đình nhà Maria. Khi Maria và cha, vừa bước lên xe để đi làm buổi sáng. Năm tên mafia đã phục sẳn. Hàng loạt tiếng nổ. Maria và cha nàng đẫ chết.

Tin sét đánh áy đến tai Calcio. Anh ta đã khóc rất nhiều, và quyết định đến xin cha xứ để tổ chức đám cưới.

Chú rể Calcio trong bộ Veste đen trang trọng cô dâu Maria rực rở trong trang phục lễ cưới trắng tinh, đầu đội chiếc lúp đính hoa sang trọng, nhưng chỉ có một điều đặc biệt, chú rể thì đứng còn cô dâu thì nằm yên nghỉ trong quan tài.

Rồiđến phần cử hành nghi thức hôn phối. Calcio cúi xuống, đọc lời trao nhẫn, trong tiếng nức nở nghẹn ngào, rồi xỏ nẫn vào tay cho cô dâu.

Hết phần nghi thức ấy, cha xứ đổi sách, và cử hành lễ nghi an táng.

Chuyện tình lãng mạn và tuyệt vời quá. Nhưng mà, chỉ cảm động thôi, chứ bí tích không thành. Bởi hôn nhân là một giao ước giữa hai người : một nam một nữ, nhưng còn sống.

Như lời Thánh Kinh : Bởi đó, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ, đẻ luyến ái với vợ mình, và cả hai sẽ nên một.

Để có thể nên một, hưởng đuợc hạnh phúc trong đời lứa đôi, người ta phải làm hai điều :

Điều thứ nhất : là phải từ bỏ.

Lìa bỏ là một điều cần. Một đứa bé, nếu muốn thành người, thì việc đầu tiên phải làm : là phải là bỏ cha mẹ, bằng một hành động cắt rốn.

Để có được hạnh phúc trong hôn nhân, người ta phải lìa bỏ rất nhiều thứ. Ngay cả tình thương gắn bó với cha mẹ, người ta cũng phải lìa bỏ.

Người ta phải bỏ sự vô tư, và nhất là sự ngông nghênh của tuổi trẻ. Hết rồi những tháng ngày rong chơi, hay bướm. Phải từ bỏ sự mè nheo, hay giận hay dỗi.

Người ta phải lìa bỏ cả những kỷ niệm ngày xưa. Những mối tình vướng lối, những người xưa thân ái, và ngay cả, cái tính tình hào hoa, nịnh đầm.

Người ta phải lìa bỏ sự lười biếng và bê bối của mình. Ngày xưa, thế nào cũng được, bây giờ khác rồi, phải tôn trọng lẫn nhau, và có một trách nhiệm nặng vai.

Và nhất là phải lìa bỏ cả sự tự do của mình nữa. Ca dao Việt Nam có câu : " Có vợ như rợ buộc chân". Chẳng phải ai buộc mình, mà chính ý thứuc, chính tình yêu của mình buộc mình. Mình buộc mình, đánh mất tự do của mình một chút, nhưng trong chiều sâu cõi lòng mình sẽ cảm nghiệm được sự ngọt ngào của hạnh phúc. Đừng vì tự ái, vì sợ thiên hạ mai mỉa  :

- Thôi, để ông ấy về xin phép bà xã đã,

Ngày xưa, lúc chưa cưới nhau, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm. Ngày nay có khác, không như thế đuợc nữa, làm gì, đi đâu, cũng còn pahỉ nghĩ đén vợ, đến con.

Điều thứ hai : là luyến ái vợ mình.

Điều ấy có nghĩa là chúng ta trở thành một món quà tặng cao quí nhất, giá trị nhất, dễ thương nhất mà Thiên Chúa ban tặng. Người ấy là vợ, bởi người ấy đã nên một với mình. Cả trước mặt Thiên Chúa, lẵn trước mặt người khác. Món quà tặng này, người vợ này, là một nửa đời của mình. Nếu mình luôn bênh vực cho nửa đời này, thông cảm cho nữa đời này, tha thứ cho nửa đời này, và luôn chăm sóc, trang điểm cho nửa đời này, thì cũng hãy làm như thế, với nửa đời kia. Sự công bằng, và tình yêu đời thế.

Và trong sự luyến ái ấy, đẻ đạt đuợc hạnh phúc, chúng con phải nhắm một mắt, và mở một mắt.

Mở một mắt, để chú ý đến những điều tốt của nhau, thiện chí của nhau.

Mắt kia nhắm lại, để thông cảm trước những lầm lỗi của người kia, trong một thái độ qnảng đại và bao dung

Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm

Giáo dục con cái:

BỨC TƯỜNG VÔ HÌNH

 

Theo các nhà tâm lý, một trong những vấn đề thường gây “nhức đầu’ cho mọi người là những rắc rối, xung đột trong các mối quan hệ; trong đó, mối quan hệ cha mẹ - con cái là thường nảy sinh nhiều căng thăng nhất.

 

“Mất sóng”

 

Đó là hiện tượng cha mẹ - con cái không thể nói chuyện với nhau một cách thoải mái, tự nhiên được nữa.

 

Bà Lưu Mai, nhân viên của một nhà sách, tìm đến tư vấn với nỗi băn khoăn : “Hơn 10 năm nay, con gái tôi luôn quấn quýt bên mẹ. vậy mà mới đây, chỉ một buổi sáng thức dậy, tôi đã thấy con mình thật lạ lẫm, khác thường. Tôi biết, ở tuổi dậy thì, con cái muốn riêng tư, tự lập nhưng điều đó cũng không có nghĩa là độc lập, xa lạ với người thân. Tôi hơi lo nên cố tìm cách gần con. Kết quả là con tôi càng trốn kỹ trong phòng. Bây giờ, khi đi học, con tôi khoá cửa phòng, dặn người giúp việc không được vào lau dọn, kể cả mẹ cũng chỉ được vào phòng khi con đồng ý”.

 

Ông Nguyễn Thanh Bình – phó giám đốc một công ty tin học, cũng không biết vì sao ông xung khắc với câụ con trai. Để phòng ngừa…con hư, ông mua xe mới cho con, không nối mạng máy tính để con không giao tiếp lung tung, khỏi tiếp cận các loại thông tin vô ích. Thế nhưng, trong suy nghĩ của cậu con trai 15 tuổi, ông là một ông bố vô trách nhiệm, không thương yêu con. Những hành vi ăn chơi lêu lổng của con trai càng khiến ông bố giận dữ, không kiềm được cơn nóng nảy khi cha con gặp nhau. Ông muốn nói rất nhiều điều với con, về những trải nghiệm của bản thân, muốn dạy con nhiều bài học làm người nhưng đành chịu thua. Cuộc sống xô bồ bên ngoài đã chiếm được thế “độc quyền” hay vẽ cho con ông cách tồn tại với nhiều mánh khoé.

 

Đứa con gái càng lớn càng ngỗ ngược, khiến bà Thu Cúc, nội trợ lo lắng. bà sợ giới tính của con có vấn đề . Bà bảo con để tóc dài, con ra tiệm “gọt” cái đầu trụi lủi. Bà bảo con nói nhỏ, đi khẽ chân trong nhà thì con bà vừa nhún nhảy vừa huýt sáo. Mẹ bảo đi ngủ thì con lôi sách ra đọc. bà khổ tâm nhất là cứ nhìn thấy con gái “hành xử”  mọi chuyện nói năng, ăn uống, như một thằng con trai.

 

Bà Cúc tâm sự : “con gái bất trị quá, không ai nói lọt tai nó. Nhất là chuyện nữ tính. Nó chỉ thích không bị ai quấy rầy. Có những lúc tôi phải khóc với nó, nó cũng chẳng mủi lòng. Nó tuyên bố, có khi nó là con gái, mà có khi lại là con trai. Mẹ lo lắng chi cho mệt”.

 

 

Đừng làm khán giả của con.

 

Pieta Valentine, một nhà giáo dục tư duy tích cực của Trung Tâm các giá trị cuộc sống ( 85 Phó Đức Chính, Q. Bình Thạnh, TPHCM ) cho biết : “Những người hay kì vọng vào con cái, thường là những người đã nỗ lực rất nhiều vì con cái. Sự hy sinh cho con, đầu tư không tiếc cho con, thường làm phát sinh sự đòi hỏi, mong muốn con cái phải đạt được cái này, có được điều kia. Cũng vì thế, họ rất dễ bực mình, thất vọng khi “ con đáp lại công lao của cha mẹ chỉ thế này thôi sao”.

 

Trong khi đó, đứa trẻ lại cảm thấy quá mệt mỏi, bởi phải “nhón gót, với tay”, theo các kỳ vọng của cha mẹ, nên thường trốn vào một góc, tự cô lập với cha mẹ. Chúng cảm thấy chơi với bạn bè hoặc người ngoài sẽ an toàn hơn, bởi đó là những người không hề đòi hỏi và trông đợi vào những cố gắng của chúng.

 

Hãy yêu đứa con của bạn như là chính nó, chứ không phải yêu thương danh hiệu, thành tích mà con đạt được, bạn sẽ cảm thấy bình an hơn.

 

Một bức tường “sừng sững’ khác giữa cha mẹ con cái là khi đứa trẻ không sống lặng lẽ trong nhà, mà quyết liệt chống đối cha mẹ. Cụ thể là chúng hay luôn có những hành vi ngược lại với các “ mệnh lệnh” của cha mẹ. Nhiều cha mẹ phát cáu lên trước tình huống đó, sử dụng cả đòn roi để khống chế con cái. Kết quả, đứa con bỏ nhà đi bụi.

 

Thực tế, chưa hẳn trẻ đã thích những chuyến đi mạo hiểu, cũng không hẳn quá mê bạn bè, mà thật ra là chúng muốn cha mẹ phải phát hoảng lên, nhao nháo đi tìm. Và điều đó, càng kích thích cho con cái “diễn” thêm nhiều trò độc khác.Đừng quá để ý, chăm chú theo dõi con cái, bọn trẻ sẽ làm bạn kiệt sức. Thay vào đó, hãy dạy cho con biết sử dụng tự do, sức khỏe và các kỹ năng vào những công việc có ý nghĩa.

 

 

Hạnh Nhơn.

 

ĐỌC SÁCH

CĂN CƯỚC

Phúc Âm thánh Yoan, phần phụ chương, chương 21:

Sau đó, Ðức Yêsu lại tỏ mình ra lần nữa cho môn đệ ở ven biển Tibêria. Ngài tỏ mình ra như thế này: Tề tựu với nhau có Simon Phêrô và Tôma, nghĩa là sinh đôi, Nathanael người Cana xứ Galilê, các con ông Zêbêđê, và hai môn đệ khác nữa, Simon Phêrô nói với họ: "Tôi đi đánh cá đây". Họ nói với ông: "Chúng tôi cũng đi với ông". Họ ra đi, lên một chiếc thuyền; nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả (Jn. 21:2-3).

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời của ông làm hai: Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.

Tôi chọn những lời Phúc Âm trên đây để vẽ căn cước cho ông vì trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này qua lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông chối từ thê thảm (Mc. 14:66-72). Nhưng phần thứ hai trong đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Yoan trên đây. Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mùng sương gió cho Nước Trời.

Trên biển hồ Tibêria, thẻ căn cước của ông được viết bằng một hàng chữ ngắn: Tôi đi đánh cá. Ông mở đầu cuộc đời anh hùng ca của ông bằng mấy chữ ấy. Với thẻ căn cước đó ông vẽ chân dung của ông bằng những mảng màu độc đáo. Ðời ông ra sao về sau này, tuỳ thuộc ở tấm căn cước mà ông xác định trên biển hồ hôm nay: Tôi đi đánh cá. Vậy chúng ta hãy "xét" căn cước của ông để tìm một chút thành tố căn bản cho thiên anh hùng ca đời ông.

Chấp nhận cô đơn sương gió

Trên biển hồ hôm đó, ta thấy Yoan kể về một nhóm bạn hữu. Ðếm ra ít nhất cũng bẩy người, nếu tính cả Phêrô, biết đâu còn nhiều hơn. Thầy của họ vừa mới chết. Cái tang chế u buồn như còn chít vòng khăn sô trong tim họ. Mất Thầy rồi, giờ này biết đi đâu? tương lai chúng ta ra sao? Chắc chắn họ vọng về những ngày quá khứ đi đâu cũng có Thầy với nỗi sầu muộn u hoài. Chắc chắn họ nhìn về tương lai với nỗi lo băn khoăn. Bởi đó, họ cần nhau. Ði đâu họ cũng muốn có nhau. Cho nên cái thường tình, họ ngồi chụm với nhau một đám đông là thế.

Trời xuống đêm nặng nề. Ngoài kia biển cứ mênh mông vô tâm. Họ hỏi nhau. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta phải làm gì? Những câu hỏi ngắn thôi mà câu trả lời sao mịt mờ quá. Trong cái bơ vơ mệt mỏi để tìm một định hướng, Phêrô lên tiếng: Tôi đi đánh cá.

Ông dại dột quá, tại sao ông không nói: Chúng ta hãy đi đánh cá. Ông lỡ lời mất rồi. Ông chỉ nói: Tôi đi đánh cá. Nếu không ai đi với ông thì sao? Khi ông nói, Tôi đi đánh cá, mà không ai đi với ông thì ông phải đi một mình. Chúng ta hãy nhìn mảng màu mà ông tự vẽ cho ông. Ông đã nhìn thấy một đêm đen mờ mịt, ngoài kia gió lạnh buông theo sương. Mênh mông một mái chèo. Lặng lẽ trong khuya khoắt một nhịp sóng cô độc, lẻ loi. Nếu không ai đi, một mình một mái chèo, một mình một biển rộng hoang vu, một mình một bão tố thăm thẳm. Nếu không ai đi, gió đưa về từng con sóng bung vạt áo, một tay đỡ nhịp, một tay chống. Chắc chắn ông đã nhìn thấy ra khơi trong đêm nay là thế. Nhưng tiếng lòng của ông là căn cước của riêng ông. Nếu không ai đi ông vẫn ra đi một mình.

Từ nay, bước đường căn cước ơn gọi làm Kitô hữu của tôi là thế. Là ngược gió mà đi, là ngược theo dòng đời mà tới. Tôi chọn hàng chữ Phêrô viết trên tấm căn cước của ông: Tôi đi đánh cá. Vì tôi thấy ông có một lựa chọn dứt khoát cho một ơn gọi. Không có ai đi, tôi vẫn đi. Trên cuộc đời, có người đi ngược, có kẻ về xuôi. Nhưng đâu là con đường của tôi. Phêrô, ông đã không để đời ông nhiễm lạnh vì cái ấm cúng của một đám đông. Ông không để đời ông sợ hãi vì không có kẻ đồng hành mà ngần ngại với ơn gọi. Tôi đang nhìn thấy một Phêrô khác cũng đang vẽ căn cước cho đời mình bằng thiên anh hùng ca của biển hồ Tiberia năm xưa, đó là Yoan-Phaolô II. Người ta chống đối Giáo Hội, vì Ngài dám nói thẳng về những tệ trạng thiếu luân lý, công bình của xã hội hôm nay.

Trong ơn gọi làm Kitô hữu của mình, tôi cần viết một hàng chữ cho căn cước của tôi.

Ðặc tính của lửa

Khi Phêrô nói: Tôi đi đánh cá. Các ông khác cùng nói: Chúng tôi cũng đi với ông. Chúng ta giả sử đêm ấy Phêrô không ra khơi, chắc hẳn chẳng có ai muốn xuống thuyền. Nhưng giờ đây, ta hãy nhìn những mảng màu táo bạo Phêrô đổ xuống biển hồ. Trong cái đêm đen mênh mông ấy, khi mà thế giới say ngủ, nhóm chài lưới bẩy người ra khơi. Họ tiến vào mù mịt gió sương, họ đập chèo vào mặt sóng không sợ hãi, họ dứt khoát đi thẳng vào mịt mùng nước mênh mông. Ðẹp làm sao trong cái u hoài sầu muộn, giờ đây bừng bừng lửa, đốt thành bẩy ngọn hải đăng thiêng liêng. Mỗi con sóng đập là toé lên từng mảng mầu dũng cảm long lanh. Mỗi ào ào gió tạt là vung tay gạt thách đố. Tôi có thể nhìn thấy Phêrô đứng ở mũi thuyền, mỗi lần sóng trào lên, mắt ông ngời sáng nhìn về phía trước. Tóc ông rối bay ẩm ướt gió sương. Không phải biển hồ đe dọa nuốt ông, mà là ông đe dọa sẽ nuốt cả biển hồ.

Lửa. Một lần Ðức Kitô đã nói: "Ta đã đem lửa xuống thế gian và ta muốn lửa ấy cháy lên" (Lc. 12:49). Ðặc tính của lửa là đốt cháy. Cái mệnh đề: "Tôi đi đánh cá" của Phêrô dẫn đến mệnh đề thứ hai: "Chúng tôi cùng đi với ông". Họ đã bị Phêrô đốt cháy.

* * *

Lạy Chúa,

Cuộc đời con có nhiều khúc đường mà kẻ đi xuôi, người về ngược, kẻ bảo dừng, người phân vân. Trong cái hoang mang đó con rất dễ đánh mất căn cước ơn gọi của con. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy đời ông có một lý tưởng. Thiên anh hùng ca đời ông đã bắt đầu bằng thái độ dứt khoát đó. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy ông đã đốt cháy đời kẻ khác chung quanh ông. Dựa vào căn cước của ông con cần xét căn cước của mình:

- Trong cuộc sống, nếu con không dám trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, nếu con tự nhủ lối sống dễ dãi của con chẳng có gì phàn nàn vì tất cả kẻ khác cũng sống như vậy. Ðấy là dấu chỉ con bỏ căn cước ơn gọi Kitô hữu của con, con đang cầm căn cước của người khác rồi.

- Lý tưởng của Phêrô đã làm thay đổi ngoại cảnh chung quanh ông. Chỉ có lửa giả mới không đốt cháy. Nếu trong bổn phận Chúa trao cho con, mà chung quanh con mọi thứ đều tà tà, chẳng có gì thay đổi, đấy là dấu hiệu con phải "xét" kỹ lại căn cước thiêng liêng của mình.

Trích tập sách"CON BIẾT CON CẦN CHÚA" của tác giả Nguyễn Tầm Thường.